Tìm kiếm

Lượt truy cập

  • Tổng truy cập57,853,028

Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

     

    Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

    *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

    WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

    Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

    The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

    Enjoy life, enjoy Arita experience!

Tác giả

​Vítězslav Nezval

Vítězslav Nezval

(26.05.1900 - 06.04.1958)

Là nhà thơ có tên tuổi Séc, nhà văn và nhà biên dịch, đồng sáng lập viên chủ nghĩa thơ ca và là nhân vật đứng đầu chủ nghĩa siêu thực (surrealismus).

Nezval sinh năm 1900 tại Biskoupky u Moravského Krumlova; mất ngày 06.04.1958 tại Praha vì nhồi máu cơ tim và sốt phát ban. Ông được chôn cất ở pražský Vyšehrad.

Cha là thầy giáo đầu tiên của ông (tại Šamikovice u Třebíče) và ngoài ra có ảnh hưởng lớn đến định hướng chính trị của Nezval. Ông cũng là người khởi động tài năng của con mình.

Nezval theo học Gymnazium tại Třebíč  - tốt nghiệp năm 1919. Sau đó ông có đăng ký theo học một học kỳ tại trường Tổng hợp Brno, từ đó đầu mùa xuân năm 1920 chuyển trường đến Praha khoa FF (khoa ngôn ngữ). Ông quan tâm đến các bài giảng của F. X. Šalda, K. Hlaváček, O. Březina, J. Deml, J. A. Rimbaud, G. Apollinaire và các bản dịch của các nhà thơ Pháp từ Karel Čapek đã ảnh hưởng nhiều nhất đến tác phẩm của Nezval.

Ông thân thiết với K. Teig và Jiří Wolker [29.3.1900 - 3.1.1924] cùng hợp tác với họ trong khuân khổ hiệp hội Devětsil. Mặc dù ông đã hoàn tất xong luận án phó tiến sỹ về Ch. L. Philipp, nhưng ông đã không học xong và tập trung cho văn học chuyên nghiệp. Năm 1924 – 1925 là thư ký ban biên tập Từ điển khoa học Masaryk và trong mùa 1928 – 1929 là nhà chỉ đạo biên kịch Nhà hát Giải phóng.

Năm 1926 nhập ngũ một thời gian ngắn nhưng sau được miễn. Ông làm quen với  cô Františka Řepová, mà sau này lấy làm vợ.

Nezval thường xuyên đi lại (Pháp, Monako, Italy, Liên Xô). Điều đó được phản ánh cả trong các tác phẩm của ông (tuyển tập Sbohem a šáteček, tiểu thuyết Monako, văn xuôi Neviditelná Moskva, các tuyển tập Veliký Orloj a Nedokončená).

Trong những năm 30 Nezval tham gia phong trào chống phát xít và trong chiến tranh (1944) bị bắt giam một thời gian ngắn. 1945 lần thứ ba ông lại đi làm và tới 1951 điều hành Vụ phim ảnh thuộc Bộ thông tin.

Các vần thơ của Nezval được in ấn lần đầu tiên trên tạp chí Svítání của sinh viên Třebíč. Trong các năm 20 thơ ông xuất bản trên các tạp chí Host, Disk, Pásmo, Nová scéna, Kmen, Rozpravy Aventina, ReD, Odeon, Sršatec, Trn, Proletkult, Tvorba, Národní osvobození, Rudé právo, Československé noviny. Trong những năm 30 tham gia vào tạp chí và báo Panoráma, Volné směry, Doba, Život, Lidové noviny, Haló noviny, Levá fronta. Po roce 1945 se soustředil na Literární noviny, Nový život, Kulturu, Výtvarnou práci.

Năm 1953 Vítězslav Nezval được phong danh hiệu Nghệ sỹ Nhân dân và được tặng huy chương vàng của Tổ chức hòa bình thế giới.

Vítězslav Nezval mất quá sớm, khi chưa đến tuổi già, nhưng ông đã chết nhẹ nhàng. Thật nhẹ nhàng như khi nhẹ nhàng kết vần thơ. Không ai cảm nhận được rằng đó là căn bệnh chết người. Tất cả chỉ nghĩ tới bệnh cúm. Ông bỗng chốc ngả đầu vào lòng người vợ của mình và chính trong giây phút đó đất nước chúng ta mất đi một trong những nhà thơ lớn của dân tộc mình.

*

Theo Phạm Thành Hưng:

Vítězslav Nezval sinh ngày 26 tháng 5 năm 1900 tại thành phố Třebíč vùng Morava. Cha ông - Bohumil Nezval là một giáo viên, từ năm 25 tuổi đã nổi tiếng là một ông thầy thông thái, yêu thơ. Chính vì yêu thơ Hálek (Vítězslav Hálek, 1835–1874), ông đã đặt tên con trai mình là Vítězslav. Lên ba tuổi, Nezval theo cha chuyển nhà đến Šemíkovice. Ở đó, năm 1906 Nezval chính thức đi học. Tuy vậy, ngay từ năm 4 tuổi Nezval đã biết chữ, suốt ngày đọc sách và chơi dương cầm. Năm 1911, Nezval đã được nhận vào trường tiểu học nổi tiếng của thành phố Třebíč. Năm 1915 ông bố đăng lính, tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất, nhưng chỉ sau một trận đánh đã bị giam vào trại tù binh.

Không còn được cha nuôi dạy, Nezval suốt ngày ngồi thư viện, đọc tất cả những gì lọt vào tay, nhưng yêu thích nhất vẫn là đọc thơ. Cuốn “Nhà văn xưng tội” của nhà thơ J.S.Machar (1864-1942) ông đọc đi đọc lại đến 17 lần, và ông đã thừa nhận đó là cuốn sách dẫn mình vào thế giới thi ca. Nezval có nhiều bài thơ đăng tạp chí từ tuổi học trò. Năm 19 tuổi ông vào học Đại học Luật ở Brno nhưng đã cộng tác với tờ nhật báo “Tự do”, nơi có Tổng biên tập là nhà thơ J. Mahen (1882-1939) – người sau thành bạn vong niên thân thiết. Cũng chính trong năm này Nezval xuất bản hai tập thơ đầu tay: “Buổi sáng và Cây cầu“.

Mùa xuân năm sau, Nezval bỏ học Luật, đến Praha ghi tên vào học khoa Triết của Đại học Tổng hợp Charles. Một mình tới thủ đô nhưng nhà thơ không cô đơn. Chính nơi đây ông đã có bạn mới là nhà soạn nhạc nổi tiếng Jiří Svoboda và làm thân với J. Wolker (1900-1924). Cũng ngay trong năm đó ông cùng Wolker, Karel Teige (1900-1951), Jaroslav Seifert (1901-1986) gia nhập một hội văn nghệ của các nghệ sỹ trẻ mang tên Devětsil.

Chưa tốt nghiệp đại học, năm 1924 Nezval đã vào làm việc cho nhà xuất bản Địa bàn, với chức trách thư ký của ban Từ điển khoa học mang tên tổng thống Masaryk.

Cũng trong năm này ông cho xuất bản “Kịch câm”, một cuốn sách phê bình và trích lục các trường phái thơ mới của Séc. Với bài báo “Con vẹt trên xe moto hay là Nghề thơ” in trong tạp chí “Khách mời”, Nezval đã cùng K.Teige chính thức ra tuyên ngôn nghệ thuật cho trường phái Duy thi (Poetismus). Vào tuổi 20, Nezval chuyển dần từ lập trường tư tưởng vô chính phủ sang chủ nghĩa Mác. Năm 1924, ông gia nhập Đảng cộng sản. Năm 1925, sau cái chết trẻ của bạn đồng niên (1900) nhà thơ J. Wolker, Nezval tuyên bố sống bằng nhuận bút và quyết định trở thành nhà văn tự do.

Năm 1926 ông xuất bản liên tục mấy tập “Vườn hồng nho nhỏ”, “Bài thơ trên bưu thiếp”, “Trò chơi ném dây” (Diabolo), ‘Những dòng văn mộ chí” và cuốn tản văn “Hội hóa trang”. Ngay trong năm sau (1927) ông ra trường ca “Edison” cùng cuốn “Nghệ thuật nhào lộn” (Akrobak) – tác phẩm được coi là đỉnh cao trong sự nghiệp văn học của ông, đồng thời đánh dấu sự trưởng thành của trào lưu sáng tác Duy thi.

Vào năm 1926, hiệp hội các văn nghệ sỹ hiện đại Devětsil khai trương “Nhà hát giải phóng”. Nhà hát thoạt đầu công diễn các vở kịch thể nghiệm theo kịch bản Pháp hiện đại, về sau đến các tác phẩm theo khuynh hướng duy thi của Nezval và V. Vančura. Nezval nhận chức trách đại diện truyền thông của Nhà hát giải phóng, đồng thời là nhà phê bình chuyên viết cho chuyên mục Sân khấu trên báo Rudé právo (Quyền lợi đỏ) của Đảng cộng sản. Ngoài tờ báo cộng sản trên, ông còn cộng tác viết bài cho các tờ Tvorba, Odeon, Nové scéna, Lidové noviny. Với tư cách nhà soạn kịch, ông viết nhiều hài kịch ngắn rồi tiến tới vở kịch năm màn đầu tiên, rất nổi tiếng “Nỗi sợ hãi”. Năm 1929 ông cho ra mắt cuốn tiểu thuyết đầu tiên: “Biên niên sử cuối thế kỷ” song hành với các bài thơ ấn tượng khác, như: “Chuông cầu hồn cho Otokar Brezin”, “Bữa sáng trên đồng cỏ”, “Đêm phục sinh”. Tuyển tập “Những bài thơ đêm” được xuất bản, đã có dấu hiệu sự nản lòng của nhà thơ với Chủ nghĩa duy thi do chính mình khởi xướng.

Chủ nghĩa duy thi, đúng như tên gọi của nó (poetic) đề cao chất thơ của đời sống và nghệ thuật ngôn từ. Đây là một khuynh hướng văn học chỉ có tính nội địa, chưa kịp ảnh hưởng tới châu Âu, vì chỉ tồn tại trong vòng 10 năm. Tuy vậy Chủ nghĩa duy thi có ý nghĩa như một cuộc chiến của „thơ mới“ trước thơ cũ truyền thống. Có thể xếp nó vào số những trào lưu văn học tiền phong chủ nghĩa châu Âu mấy thập niên đầu thế kỷ. Làm thơ Duy thi, Nezval chủ trương một kiểu „thơ ca của những ngày thường“, viết về những câu chuyện bình dị trong đời sống. Ông không chỉ xem „duy thi“ như một cương lĩnh văn học mà còn muốn nó trở thành một phương pháp tư duy, một cách nhìn cuộc đời sao cho nó “thơ hơn và trở thành thơ“. Duy thi còn chủ trương đoạn tuyệt với hoạt động chính trị và chủ nghĩa lạc quan lịch sử. Cũng vì vậy các nhà thơ duy thi nhấn mạnh phong cách trữ tình và khuyến khích thi pháp tu từ với kiểu câu thơ tự do, không vắt dòng, ngắt dấu. Thơ duy thi hướng vào những vấn đề của đời sống hiện tại hoặc tìm kiếm những niềm vui bất chợt. Chủ đề chính của nó là hạnh phúc và niềm vui cuộc sống con người. Cơ sở triết học nhân sinh của trường phái này cơ bản chỉ xoay quanh vấn đề quan hệ xã hội của con người và đặc biệt là vấn đề tha hóa cũng như sự tự tha hóa của con người. Xã hội đang để con người cá nhân biến mất vì xã hội không quan tâm tới hạnh phúc cá nhân mà chỉ quan tâm đến chính bản thân xã hội. Nhiệm vụ cần gánh vác đối với thơ Duy thi là góp phần khắc phục tình trạng “sự biến mất của con người. Xét cho cùng, chủ nghĩa Duy thi có ngọn nguồn phát sinh từ phong trào Thơ ca vô sản và gắn bó chặt chẽ với nhóm nghệ sỹ tiền phong chủ nghĩa Devětsil. Lịch sử văn học Tiệp Khắc lấy niên biểu khai sinh của nó là năm 1923, nhưng thuật ngữ Duy thi thì chỉ một năm sau (1924) mới được sử dụng chính thức.Và tới năm 1928 trong tạp chí Revui Devětsil mới có Tuyên ngôn nghệ thuật chính thức được trình bày trong ba bài viết, trong đó có tản văn trữ tình “Giọt mực“ của Nezval.

Từ năm 1929 đến 1932, Nezval lập kỷ lục sáng tác bằng hàng loạt tác phẩm hấp dẫn: “Nàng muốn đánh cắp huân tước Blamington” – một cuốn sách phê phán xã hội thị dân tư sản; Bộ ba truyện ngắn “Người mù với chim thiên nga”; tập truyện ký “Khúc nhạc đêm tình” và hai tiểu thuyết “Ngài Marat”, “Tình nhân quầy hàng” (Milenci z kiosku); Trong những năm 30, ông dồn sức cho hoạt động sân khấu. Ngoài các vở kịch chuyển thể, ông cho dựng “Ba chàng lính ngự lâm”, “Mặt trời Figaro”, “Thánh đường Delfy” (Věštírna delfská), “Ác điểu”, “Hãy để người nghèo khôn đi”. Tuy nhiên, thơ vẫn là niềm say mêlớn nhất của Nezval. Cùng với kịch bản sân khấu, các tập thơ “Tấm áo chẽn thủy tinh”, “Năm ngón tay”, “Lá thư hồi âm” lần lượt ra mắt độc giả với những cách tân độc đáo trong thi pháp.

Năm 1933, trong một lần sang Paris, Nezval gặp các đại diện hàng đầu của chủ nghĩa siêu thực Pháp. Ông tìm thấy trong thơ siêu thực con đường giải quyết sự khủng hoảng trong các trào lưu văn học tiền phong chủ nghĩa bấy giờ. Từ Pháp ông sang Monako và Italia – chuyến đi dài ngày này đã đem lại cho ông tập du ký “Monako” và tập thơ “Lời tạm biệt và chiếc khăn tay” - một tập thơ được giải thưởng quốc gia và được dịch ra hàng chục thứ tiếng trên thế giới. Sau những chuyến du lịch dài, về nước, ông lập nhóm siêu thực Séc thu hút gia nhập nhiều nhà thơ nổi tiếng như: Konstantin Biebl (1898-1951), Jindřich Honzl (1894-1953), Jaroslav Ježek (1906-1942)…

Cũng trong năm 1934, Nezval nhận lời mời sang Maxcơva dự Đại hội lần thứ nhất Hội nhà văn xô viết. Những ngày lưu lại trên đất nước cách mạng vô sản này đã để lại trong ông nhiều cảm giác vui buồn lẫn lộn. Ông đã thể hiện những băn khoăn trăn trở của mình trong thiên phóng sự “Maxcơva không thể nhìn thấy được”. Sau chuyến đi, tư duy nghệ thuật siêu thực càng biểu lộ rõ ràng trong tập thơ “Người đàn bà số nhiều” (Žena v množném čísle ”) xuất bản năm 1936. Cũng trong năm đó, tập thơ “Praha trong những ngón tay mưa” cho thấy Nezval đã dự cảm chính xác một cuộc chiến tranh đang đến gần. Và rồi năm sau, 1937, tập thơ “Người đào mồ chuyên nghiệp” ra mắt, là kết quả của quá trình thử nghiệm chủ nghĩa siêu thực. Mỗi năm Nezval một tin rằng: chủ nghĩa siêu thực đã dẫn đến những xung đột kỳ quặc trong thực tiễn sáng tác. “Người đào mồ chuyên nghiệp” đã trở thành tác phẩm duy nhất nhìn thế giới bằng cảm quan siêu thực. Tháng 3 năm 1938 sau khi tuyên bố rời khỏi nhóm siêu thực, ông đã ý thức được những giới hạn không tránh khỏi của chủ nghĩa siêu thực trên cả hai phương diện tư duy lý thuyết và thực tế sáng tác.

Năm 1938, cảm thấy chiến tranh và chế độ chiếm đóng đang đến, Nezval xuất bản tập thơ “Người mẹ hy vọng”, tập thơ bộc lộ nỗi lo âu trước tương lai đất nước. Ngay sau đó, tập truyện “Người đi bộ Praha” của ông được xuất bản, lại cho người đọc thấy tiếp những lo âu của tác giả cho số phận dân tộc và tiền đồ của thành phố Praha mến yêu.

Trong những năm đất nước bị Phát xít Đức chiếm đóng, Nezval vẫn tranh thủ xuất bản được Tập đầu của bộ sử ký “Bức tranh lịch sử”. Tập 2 của nó phải sau chiến tranh kết thúc mới được xuất bản trọn vẹn. Trước bộ máy kiểm duyệt phát xít, Nezval vẫn xuất bản được một số vở kịch lớn. Ông ý thức được rằng, dưới chế độ bảo hộ phát xít, sân khấu sẽ là diễn đàn duy nhất đắc dụng cho các diễn ngôn tư tưởng, và ngôn ngữ diễn viên mới tạo được con đường ngắn nhất cho chủ nghĩa yêu nước đến với nhân dân. Vở kịch thơ “Manon Lescaut” của ông, dựa theo tiểu thuyết của Abbé Prévost (Pháp, 1697-1763) đã được trình diễn công khai ngay trong năm 1940. Các vở nối ngay sau đó, như vở “Thánh đường Loreta”, kịch năm hồi “Mặt trời hôm nay vẫn lặn trên Atlantida” (một vở kịch thơ dựa theo huyền thoại về nền văn minh Atlantik bị chìm sâu vào Đại tây dương, lên tiếng cảnh báo về vũ khí hạt nhân và sự hủy hoại môi trường sinh thái, được dịch ra nhiều ngôn ngữ) đã đưa tên tuổi Nezval vào tốp Mười nhà thơ thế kỷ.

Từ năm 1924 Nezval đã công khai tuyên bố ủng hộ đường lối chính trị của Đảng cộng sản Tiệp Khắc và trở thành Đảng viên. Chính đó là lý do cho quân đội phát xít Đức bỏ tù Nezval mấy tháng liền. Trong tù, phải học tập “tẩy não”, nhưng ông rất tự hào khi các bạn tù gọi mình là “nhà thơ cộng sản”.

Bên cạnh các kịch bản sân khấu, ông còn cộng tác viết cho chuyên mục Thiếu nhi của Đài phát thanh và viết nhiều kịch bản phim truyện nổi tiếng như “Erotikon”, “Thứ Bảy đến Chủ nhật”, “Dân Podskali”, “Những đêm yên tĩnh”...

Vào thời chiếm đóng cho tới khi giải phóng Tiệp Khắc, Nezval vẫn kiên trì và bí mật hoàn thành bản thảo tập 3 của bộ sách “Bức tranh lịch sử”. Bằng bút pháp tự sự trữ tình, nhà thơ nắm bắt không khí ngột ngạt, đau thương của 6 năm chiếm đóng và những ngày Praha khởi nghĩa vũ trang cùng Hồng quân đánh đuổi quân đội Hitle. Cũng ngay trong năm 1945 sôi động các sự kiện lịch sử, Nezval vẫn xuất bản được tập thơ “Khúc hát Manon”, viết từ trong những năm 39-40, cùng với các tập “Valinka một tuần kinh ngạc”. Năm 1949 ông cho in trường ca “Stalin” - bài thơ khá dài, viết trước đó, nhân kỷ niệm lần thứ 70 sinh nhật vị nguyên thủ Sô-viết. Đây là bài thơ không hề để lại trong dư luận những nghi ngờ tai tiếng, vì ông viết trên tinh thần chống chủ nghĩa sùng bái cá nhân và hình ảnh Stalin chỉ là hình ảnh biểu tượng cho nhà thơ bày tỏ niềm kính trọng đối với nhân dân Nga trước một thử nghiệm lịch sử lớn lao. Bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh, năm 1950 ông có bài thơ “Khúc hát hòa bình”, bài thơ đã trực tiếp giúp Nezval nhận Huy chương Vàng của Hội đồng Hòa bình thế giới. Năm 1955, Nezval còn in tiếp tập thơ “Những cây hoa mua và thành phố” cùng tuyển tập phê bình “Những khuynh hướng thơ ca hiện đại”.

Nezval mất ngày 6 tháng 4 năm 1958 tại Praha, đúng ngày ông dự đoán. Vốn là người suốt đời mê thuật chiêm tinh, thậm chí di cảo ông để lại còn tìm thấy 70 trang bản thảo giáo khoa về chiêm tinh ông đang soạn dở, lại dựa vào lá số tử vi do nhà soạn kịch Jan Bartoš (1893-1946) lập cho từ năm 23 tuổi, Nezval đã nói trước với bạn bè rằng mình sẽ chết trong tuần Phục sinh. Chỉ sau một ngày cúm nhẹ, ông đã nhẹ nhàng thiếp đi trong vòng tay vợ, để lại cho đời một di sản văn học nghệ thuật đồ sộ và tấm gương lao động của một nghệ sỹ tài hoa và quả cảm.

Tìm kiếm

Lượt truy cập

  • Tổng truy cập57,853,028

Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

     

    Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

    *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

    WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

    Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

    The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

    Enjoy life, enjoy Arita experience!