Tìm kiếm

Lượt truy cập

  • Tổng truy cập57,847,257

Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

     

    Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

    *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

    WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

    Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

    The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

    Enjoy life, enjoy Arita experience!

Tư liệu sáng tác

Những khoa thi trong thời nhà Nguyễn

Tư liệu

  • Thứ năm, 01:32 Ngày 19/11/2009
  • Ở Việt Nam, giáo dục và khoa cử ngay từ khi mới ra đời đã được Nhà nước coi là phương tiện chủ yếu để đào tạo và tuyển dụng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Năm 1802, nhà Nguyễn trị vì đất nước. Sau khi lên ngôi, năm Đinh Mão (1807), vua Gia Long xuống chiếu xác định: “Khoa mục là con đường bằng phẳng của học trò, thực không thể thiếu được. Phải giáo dục thành tài sau thi Hương, thi Hội lần lượt được cử hành thì người hiền tài nối nhau lên giúp việc”. Năm 1807, vua Gia Long cho mở khoa thi Hương đầu tiên, phép thi phỏng theo phép thi cử đời Lê. Từ đó đến năm Mậu Ngọ, Khải Định thứ 3 (1918), nhà Nguyễn đã tổ chức được 47 khoa thi Hương lấy đỗ được 5.208 người. Trong đó Thăng Long- Hà Nội có 450 người đỗ.

    Từ năm Nhâm Ngọ (1822), vua Minh Mạng tổ chức khoa thi Hội đầu tiên đến năm Kỷ Mùi, Khải Định thứ 4 (1919), nhà Nguyễn tổ chức được 39 khoa thi Hội, lấy đỗ được 558 người. Trong đó Thăng Long-Hà nội có 39 người đỗ Đại khoa.

    I. Thi Hương.

    1.Trường thi.

    Mục đích của thi Hương là lựa chọn nhân tài dự thi Hội và thi Đình nên được tổ chức ngay tại các địa phương. Các địa phương căn cứ vào sự lớn nhỏ và số lượng thí sinh mà tổ chức trường thi chung hoặc riêng. Vì vậy các trường thi thường được thay đổi và tăng dần lên. Kỳ thi Hương đầu tiên năm 1807 cả nước có 6 trường thi đặt ở 6 địa điểm như sau:

    - Trường Nghệ An.

    - Trường Thanh Hoá ( thi chung cho cả Ninh Bình).

    - Trường Kinh Bắc ( thi chung cho cả Hà nội, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng).

    - Trường Hải Dương (thi chung cho cả Quảng Yên (Quảng Ninh)).

    - Trường Sơn Tây ( thi chung cho cả Hoài Đức, Tuyên Quang, Hưng
     Hoá).

    - Trường Sơn Nam (thi chung cho cả Sơn Nam thượng, Sơn Nam hạ). Đến năm Quý Dậu (1813):

    - Mở thêm trường Quảng Đức (sau gọi là trường Thừa Thiên), thi chung cho thí sinh ở Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Gia Định.

    - Trường Thăng Long thi chung cho thí sinh Hà nội, Kinh Bắc, Sơn Tây, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hoài Đức, Hưng Hoá.

    - Trường Sơn Nam thi chung cho cả Hải Dương, Quảng Yên. Năm Giáp Ngọ (1834), các trường thi Hương cả nước như sau:

    - Trường Hà Nội dành chi thí sinh Hà nội, Bắc Ninh, Sơn Tây, Tuyên
     Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hưng Hoá.

    - Trương Nam Định dành cho thí sinh Nam Định, Hải Dương, Quảng
    Yên, Hưng Yên.

    - Trường Thanh Hoá dành chi thí sinh Thanh Hoá, Ninh Bình.

    - Trường Nghệ An dành chi thí sinh Nghệ An, Hà Tĩnh.

    - Trường Thừa Thiên dành cho thí sinh Thừa Thiên, Quảng Bình, Quảng
     Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên.

    - Trường Gia Định dành cho thí sinh Gia Định, Biên Hoà, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên, Bình Thuận, Khánh Hoà (sau Khánh Hoà thi chung với trường Thừa Thiên).

    Sau mở thêm trường Bình Định vào năm Mậu Thân, Tự Đức thứ 1 (1848) và An Giang năm Tân Dậu, Tự Đức thứ 11 (1861).

    Nhưng việc thi chung cho các thí sinh các trường cũng luôn thay đổi,nhất là vào những năm có những biến cố như giặc giã. Năm Tự Đức thứ 14, Tân Dậu (1861), Bình Định hợp thi ở trường Thừa Thiên; Thanh Hoá hợp thi với Hà Nội, Nam Định phụ thi với Hà Nội. Khoa thi năm Giáp Thân (1884), niên hiệu Kiến Phúc thứ 1, thí sinh Hà Nội, Sơn Nam đến thi tại Thanh Hoá. Năm Bính Tuất (1886), thi Ân khoa, thí sinh Hà Nội, Sơn Nam, Ninh Bình cùng thi tại Nam Định. Khoa Đinh Hợi (1887), vì có giặc phải hoãn lại năm sau và trường Hà Nội và Sơn Nam hợp làm một”

    2. Điều kiện dự thi.

    2.1. Về lý lịch. Tất cả thí sinh muốn dự thi thì trước khi thi 4 tháng phải ghi danh tại địa phương mình cư trú và được Lý trưởng xác nhận.

    Về tuổi dự thi không hạn định. Từ người dưới 20 tuổi đến người trên 40-50 tuổi vẫn được dự thi.

    Những thí sinh mắc vào những điều sau khôngđược dự thi:

    - Đang chịu tang cha hoặc mẹ.

    - Đang chịu tang ông nội, bà nội, nếu mình là người thừa trọng.

    - Những người ngoại tỉnh đến trú ngụ học thi (muốn dự thi phải về thi tại quê quán), trừ những người theo cha, ông đi trấn nhậm ở xa.

    - Những người bất hiếu, bất mục, gian dâm, bạo tàn.

    - Thân thuộc với những người phạm tội chém, giảo (thắt cổ), đi đày, sung quân (dù những người này đã được tha về). Ở những trường hợp thân thuộc phạm tội nhẹ hơn sẽ cứu xét.

    - Thân thuộc với giặc.

    2.2. Về học lực.

    Muốn dự kỳ thi Hương, các sĩ tử phải trải qua một kỳ sát hạch tại địa phương gọi là Khảo khóa. Để được dự kỳ thi Hương các khoá sinh phải trải qua lệ khảo khoá ở các địa phương từ huyện, phủ tới tỉnh. Nhà Nguyễn quy định lệ khảo khoá được tổ chức thường xuyên hàng năm. Để luyện cho học sinh quen cách làm bài, thường một năm trước kỳ thi Hương, quan Đốc học ra đầu đề hàng tháng và niêm yết ở dinh Đốc học. Học sinh đến ch p đề và nữa tháng sau đem bài đến nộp. Đến cuối tháng quan Đốc học cùng các vị khoa bảng trong tỉnh họp nhau chấm. bài và tổ chức buổi bình văn. Mỗi năm có một kỳ khảo khoá, ai đậu được gọi là “thầy khoá” và được miễn phu phen, tạp dịch trong 1 năm. Quan trọng nhất là kỳ sát hạch cách 5 tháng trước kỳ thi Hương. Đây là hình thức tổ chức thi cho cả học sinh trường công và trường tư để xem ai có đủ khả năng “theo nghiệp bút nghiên” thì cho miễn binh, dịch để tiếp tục việc học, ai không có khả năng ấy thì trả về làm dân. Định kỳ khảo khoá hàng năm 2 kỳ vào ngày 15 tháng 4 và ngày 15 tháng 10 âm lịch. Các kỳ khảo khoá do các quan đốc học, giáo thụ, huấn đạo phụ trách. Những thí sinh vượt qua được kỳ Khảo khoá sẽ được Lý trưởng lập danh sách chuyển lên quan trấn. Trong danh sách ghi chú rõ học ở đâu, ai là thầy giáo dạy hoặc đã đỗ Tú tài lần trước. Danh sách này lập thành 3 bản. Một bản gửi vào Kinh nộp cho bộ Lễ; một bản lưu ở trấn; một bản giao cho quan coi việc học ở địa phương để so với số quyển thi phải nộp, xong rồi danh sách đó lại chuyển đến trường thi. Những người muốn dự kỳ thi Hương phải vượt qua kỳ thi này. Học sinh trường công kết quả khảo khoá còn là tiêu chuẩn để được cấp lương bổng hàng tháng.

    3. Quyển thi.

    Được dự thi khoa thi Hương, thí sinh phải đến nộp quyển thi tại dinh Đốc học trước ngày thi 2 tháng. Tuỳ ph p thi hàng năm mà có số quyển và độ dày mỏng khác nhau.. Trong các quyển thi không thể thiếu phần ghi quê quán, nắm sinh, học tại đâu và phần kê khai “tam đại” tên tuổi, nghề nghiệp của cha, ông, cố.

    4. Thời gian thi. Từ năm Đinh Mão (1807), các khoa thi Hương được tổ chức nhưng niên hạn mở các khoa thi không đồng nhất tuỳ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Đời vua Gia Long thì 6 năm một lần. Đến đời vua Minh Mạng thì ba năm một lần, quy định vào các năm Tý Ngọ-Mão-Dậu. Thi Hương thường tổ chức vào mùa Thu. Nhưng ở nước ta thời tiết ba miền không giống nhau, vì thế việc ấn định ngày thi ở ba miền cũng không giống nhau. Việc chọn ngày tháng cốt sao cho tránh khỏi ảnh hưởng của thời tiết nhất là mưa, bão”. Năm Đinh Mão (1807), các trường thi miềm Bắc tổ chức vào tháng 10. Đến năm Quý Dậu (1813), các trường thi miềm Bắc tổ chức vào tháng 10; trường Nghệ An, Thanh Hoá tổ chức vào tháng 3; trường Thừa Thiên và phía Nam tổ chức vào tháng 7. Đến năm Tự Đức thứ 31 (1878) lại thay đổi, các trường thi Thừa Thiên, Bình Định, Nghệ An thi vào tháng 4; các trường thi Thanh Hoá, Hà Nội, Nam Định, thi vào tháng 6.

    Từ năm Minh Mạng thứ 12 (1831), trở về trước, thi Hương hạn định thời gian trong một tháng mười ngày hoặc một tháng. Về sau định phép thi 3 kỳ, các trường đều lấy ngày mùng 1 vào kỳ thi thứ nhất, ngày mùng 6 vào kỳ thi thứ hai, ngày mùng 12 vào kỳ thi thứ ba, ngày 22 ra bảng. Các trường Nam Định, Hà Nội theo lệ định là vào tháng 10, nhưng nhất kỳ thì đổi là ngày mùng 1 vào kỳ thi thứ nhất, ngày mùng 9 vào kỳ thi thứ hai, ngày mùng 18 vào kỳ thi thứ ba, ngày mồng 1 tháng sau ra bảng. Mỗi kỳ cách nhau khoảng 6 ngày để Ban giám khảo đủ thời gian chấm bài. Tất cả đều hạn định trong 1 tháng. (CXD tr231,232).

    Trước khi vào trường thi, thí sinh phải chuẩn bị đủ lều, chõng, chiếu, tráp đựng nghiên, bút dao, kéo cùng thức ăn đủ dùng trong một ngày. Quan trọng nhất là ống chứa quyển thi. Vì quyển thi phải giữ gìn cẩn thận, sạch sẽ.

    Một ngày thi bắt đầu từ khoảng 1- 3 giờ sáng. Đây là khoảng thời gian thí sinh đến cổng trường thi nghe gọi tên, nhận quyển thi và dựng lều chõng. Đến khoảng 5 giờ thì công việc chuẩn bị này phải hoàn tất.

    Đến giờ Mão (5 giờ 30) thì chép đề.

    Từ giờ Thân (15 giờ) đến hết canh một (không quá 19 giờ), thí sinh nộp bài ở nhà Thập đạo.

    5. Nội quy và nội dung thi. Thời Nguyễn các quy định về nội dung thi hầu như không thay đổi, nhưng hình thức tổ chức thi chặt chẽ hơn và danh hiệu đỗ đạt được phân chia cao thấp rõ ràng.

    5.1 Nội quy.

    Trong quá trình làm bài thi, những thí sinh nào phạm các điều sau đây sẽ bị đánh hỏng.

    - Mang tài liệu vào trường thi.

    - Nói chuyện ồn ào, chạy lộn xộn.

    - Quên đóng dấu “nhật trung”, (dấu xác nhận vào trong quyển thi chứng tỏ bài được làm trong trường thi).

    - Kê gian lận tên tuổi.

    - Ngồi không đúng chỗ, tự ý vất bỏ hoặc sửa đổi bảng ghi tên.

    - Nộp bài trễ.

    - Không biết tránh chữ huý.

    - Khiếm trang (dùng những từ thô tục, hung bạo, thiếu tôn kính).

    - Khiếm đài (viết một câu văn mà gặp những từ Thiên, Địa, tôn tự mà
     không sang dòng khác hoặc lên cao hay thấp không đúng).

    - Chữ viết phải chân phương, rõ ràng, thiếu một nét chấm . cũng bị đánh hỏng. Quyển thi bị ố bẩn, tì vết.

    5.2. Nội dung thi.

    Thời gian thi thường khoảng một tháng, thí sinh phải trải qua bốn kỳ thi, phép thi như sau:

    - Kỳ thứ nhất (nhất trường). Thi Kinh nghĩa 5 đề: Truyện một đề, sĩ tử làm bài chỉ về một hay nêu đề Kinh nghĩa đều được.

    - Kỳ thứ hai (nhị trường). Thi Chiếu, Biểu, Chế (Tứ lục) mỗi loại một đề.

    - Kỳ thứ ba tam trường). Thi phú. Làm thơ Đường luật 1 đề, phú 8 vần 1 đề.

    - Kỳ thứ tư (tứ trường). Thi Sách vấn 1 đề.

    Tất cả đều theo từng kỳ ra bảng, trúng kỳ trước mới được vào kỳ thi sau. Người trúng Tam trường là Sinh đồ, trúng Tứ trường là Hương cống, được ban áo mũ và đãi yến. Đến năm Mậu Tý, Minh mạng thứ 9 (1828), thay đổi trúng Tam trường là Tú tài và trúng Tứ trường là Cử nhân. (Cao Xuân Dục “Quốc triều hương khoa lục”, Nxb TP HCM, 1993, tr 53,54). Thời Nguyễn trung bình mỗi kỳ thi Hương có tới vài ngàn thí sinh. Nhưng số lượng lấy đậu rất ít. Mỗi khoa thi, mỗi trường chỉ được ph p lấy tối đa 26 người đậu Cử nhân và số Tú tài gấp 3-4 lần. Tuy vậy phần lớn các khoa thi đều không đạt số lượng.

    Đến tháng 12 năm Minh Mạng thứ 13 (1832), cách thứ thi Hương và thi Hội lại được cải tiến. Trước đây thi Hương, thi Hội theo đúng văn thể tứ trường, nay định lại kể từ khoa thi Hương năm Giáp Ngọ (1834) chỉ còn tam trường (bỏ kỳ 2 thi tứ lục: chế, chiếu, biểu)

    Từ khoa Tân Sửu, Thiệu Trị năm thứ 1 (1841), phép thi vẫn theo đời Minh Mạng, nhưng bắt đầu hạn định số người lấy đậu trong các khoa thi Hương. Đến khoa thi Hương năm Giáp Ngọ (1834) chỉ còn tam trường, nhưng đến năm Nhâm Tý, Tự Đức thứ 3 (1850), thi Hương lại dùng ph p thi 4 kỳ (thi Hội cũng thế), theo kỳ ra bảng. Thí sinh ai đậu đươc 3 kỳ lấy đậu Tú tài, ai đậu được 4 kỳ lấy đậu Cử nhân. Phép thi như sau:

    - Kỳ thứ nhất thi Chế nghĩa 7 đề: Ngũ kinh mỗi sách 1 đề, Đại học hoặc Trung dung 1 đề, Luận ngữ hoặc Mạnh tử 1 đề. Thi Hương làm 3 đề trở lên. Thi Hội làm 4 đề trở lên.

    - Kỳ thứ hai thi Sách vấn làm bài về những đạo lý lớn, chế độ lớn trong chính điển của kinh sử, có quan hệ với các nguyên uỷ, điều cốt yếu của nhân luân trị đạo, lại phải xác thực có căn cứ. Nếu có hỏi đến quốc sử, thời sự thì phải làm đúng theo sự thực trong sách vở, không được chỉ dùng lối sáo ngữ trả lời qua loa, người ra đề không được theo ý riêng để xoi mói.. Thi Hương, kim văn thì theo đề mà hỏi sơ qua. Thi Hội thì hỏi kỹ về chính trị thời vụ để tỏ ra có phân biệt.

    - Kỳ thứ ba thì có một bài chiếu, một bài biểu (thi Hương thì bài làm phải từ 250 chữ trở lên, thi Hội thì bài làm phải từ 400 chữ trở lên). Luận ngữ 1 đề (thi Hương phải từ 400 chữ trở lên, thi Hội phải từ 600 chữ trở lên.

    - Kỳ thứ tư thi thơ phú mỗi loại một bài.

    Đến năm Mậu Ngọ, Tự Đức thứ 11 (1858), thi Hương lại dùng ph p thi 3 kỳ: Kỳ thứ nhất thi Chế nghĩa; kỳ thứ hai thi Chiếu, Biểu, Luận; kỳ thứ ba thi Văn sách. Riêng thơ phú thì không thi đến kỳ thi Hội mới thi. Trong đề Chế nghĩa có ám tả, truyện, chú, trước hết phải chọn một, hai câu cẩn án để nêu rõ đại ý. Văn sách đổi làm 10 câu hỏi, Ngũ kinh mỗi kinh 1 câu, truyện 2 câu, sử Hán, Đường, Tống 3 câu. Sĩ tử làm bài được 1 cau chuyện kinh, 1 câu kiêm kinh, 1 câu về truyện, 2 câu về sử, đủ 5 câu là đủ quyển.

    Khoa thi năm Bính Tý, Tự Đức thứ 29 (1876), thi Hương lại đổi ph p thi: Kỳ thứ nhất thi Chế nghĩa; kỳ thứ hai thi thơ phú, còn văn tứ lụcthì bỏ. Riêng bài văn sách thì trước hết phải có câu tổng mạo, kế tới liên hệ việc cổ, sau nữa mới tới đoạn lớn như thể thức ph p thi cũ. Bài chế nghĩa thì những phần như cẩn án, ám tả, truyện và chú cùng với loại 10 bài sách vấn đều bỏ, chỉ giữ phần trung giải, hậu giải. Kỳ phúc hạch trước đây dùng thể thơ ngũ ngôn tám vần, nay đổi dùng Chiếu hoặc Biểu 1 bài để bổ sung vào chỗ thiếu bài tứ lục.

    Trước đây việc thi cử do Ty Tân Hưng thuộc bộ Lễ phụ trách, đến tháng 9 năm Duy Tân thứ 1 (1907) thì giao cho bộ Học. Chiếu theo lời bàn từ năm Thành Thái thứ 18 (1906), khoa thi năm Kỷ Dậu, Duy Tân thứ 3 (1909), chuẩn lại ph p thi. Sự thay đổi ph p thi lớn nhất là trong kỳ thi thứ 3 thi luận 2 đề thì chữ Nho 1 đề, chữ Quốc ngữ 1 đề. Và người nào tình nguyện thi dịch chữ Pháp ra chữ quốc ngữ thì thi riêng một kỳ. Riêng trường Hà Nam việc thi thơ phú, kinh nghĩa đã bãi bỏ, nên ph p thi như sau:

    - Kỳ thứ nhất thi văn sách 5 bài (gồm văn chương, luân lý, Nam Bắc sử, địa dư và chính trị Đông Dương.

    - Kỳ thứ hai thi luận chữ Nho 2 đề. - Kỳ thứ ba thi luận chữ Quốc ngữ 2 đề.

    - Kỳ phúc hạch thi một bài luận chữ Nho, một bài luận chữ Quốc ngữ.

    Các đề thi Quốc ngữ do Phủ Thống sứ đặt ra và Toà Hội đồng chọn đề chấm điểm, xong thì giao lại cho quan trường thi.

    Khoa thi Hội năm Nhâm Tý, Duy Tân thứ 6 (1912), thì các trường thi trong cả nước theo ph p thi của trường Hà Nam năm Kỷ Dậu, Duy Tân thứ 3 (1909).

    6. Chấm thi.

    Người đỗ đầu khoa thi Hương được gọi là Giải Nguyên, đỗ thứ 2 là á Nguyên; Đủ điểm cả kỳ thi được gọi là Cử Nhân và được dự thi Hội. Chỉ đủ điểm ba kỳ gọi là Tú tài và tiếp tục học để dự các kỳ thi Hương sau. Từ năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), những người xuất thân từ Giám sinh, Tú tài nếu sát hạch mà trúng cách thì cũng được dự thi Hội.

    Đời Minh Mạng, quy định cách chấm định đỗ hỏng như sau:

    - Bốn quyển thi đều bị phê Liệt tức hỏng.

    - Chỉ có quyển thi ở ba trường, 1 trường không có quyển thi hoặc 1 trường bỏ giấy trắng sẽ bị hỏng.

    Ngoài 2 loại kể trên, tất cả những quyển thi đã chem. điểm sẽ được xếp hạng từ trên xuống dưới sau đó căn cứ vào số Giải ngạch (Số lượng ấn định lấy đỗ từ trước) để chọ người đỗ. Cách xếp hạng như sau:

    - Hạng nhất: 4 quyển đều Ưu.

    - Hạng nhì: 3 Ưu, 1 Thứ hay 2 Ưu 2 Bình.

    - Hạng ba : 2 Ưu, 2 Thứ hay 1 Ưu 3 Bình.

    - Hạn tư : 1 Ưu, 2 Bình, 1 Thứ hay 4 Bình.

    - Hạng năm : 1 Ưu, 3 Thứ.

    - Hạng sáu: 3 Bình, 1 Thứ.

    Năm Tự Đức thứ 3 (1850), thi Hương bắt đầu chi ra 7 bậc để quan trường chấm điểm: ưu,, ưu thứ, bình, bình thứ, thứ, thứ thứ, liệt. Người trúng 3 kỳ có điểm ưu, bình và thứ lấy đậu Cử nhân; có điểm thứ mác (tiểu thứ, một hạng điểm giữa điểm thứ và điểm thứ thứ, viết bằng chữ thứ nhưng có chấm thêm một n t hình như cái mác để phân biệt với điểm thứ) và thứ thứ thì lấy đậu Tú tài. Người trúng hai kỳ thì được miễn binh dao 2 năm, trúng một kỳ thì được miễn 1 năm.

    Trường thi Hương ở Hà Nội đặt ở phố Tràng Thi (nay là Thư viện quốc gia). Đến năm Quý mão,Thiệu Trị thứ 3 (1843) thì được xây dựng theo quy cách như sau: “bên trong dựng nhà ngói, bên ngoài bao tường gạch. Trong trường ngăn hai phần. Phần phía Tây có 21 nếp nhà gạch để các quan trường ở và làm việc. Phía Đông rộng hơn để đất trống để các sĩ tử dựng lều thi”. Nếu có nhà dựng sẵn “Thi hương thì 4 người một gian”. Có hai đường cắt nhau ở giữa, chia thành 4 “vi”. Đấy là đường “thập đạo”. Giữa dựng một chòi cao, từ trên ấy quan Đề điệu đứng coi thi.

    7. Các kỳ thi Hương, số lượng Cử nhân của cả nước và củaThăng Long- Hà Nội thời Nguyễn.

    Từ năm Đinh Mão, Gia Long thứ 6 (1807) đến năm Mậu Ngọ, Khải Định thứ 3 (1918), nhà Nguyễn đã tổ chức 47 kỳ thi Hương lấy đỗ 5.208 người. Cụ thể như sau: Đời Gia Long 3 kỳ lấy đỗ 255 người; Minh Mạng 8 kỳ lấy đỗ 731 người; Thiệu Trị 5 kỳ lấy đỗ 600 người; Tự Đức 17 kỳ lấy đỗ 1851 người; Kiến Phúc 1 kỳ lấy đỗ 139 người; Đồng Khánh 3 kỳ lấy đỗ 238 gười; Thành Thái 6 kỳ lấy đỗ 959 người; Duy Tân 3 kỳ lấy đỗ 376 người; Khải Định 1 kỳ lấy đỗ 59 người. Trong đó Thăng Long- Hà Nội số người đỗ từng kỳ như sau:

    1. Khoa thi năm Đinh Mão, Gia Long thứ 6 (1807), thi chung với trường Kinh Bắc và Sơn Tây, Hà Nội có 16 người đỗ ( 16 / 26 khu vực([1]); 16 / 61 cả nước).

    2. Khoa thi Quý Dậu, năm Gia Long thứ 12 (1813), trường Thăng long tổ chức thi riêng. Hà Nội có 10 người đỗ (10 / 16 khu vực; 10 / 82 cả nước).

    3. Khoa thi năm Kỹ Mão, Gia Long thứ 18 (1819), Hà Nội có 14 người đỗ, ( 14 / 23 khu vực; 14 / 112 cả nước).

    4. Khoa thi năm Tân Tỵ, Minh Mạng thứ 2 (1821), Hà Nội có 18 người đỗ, (18 / 57 khu vực; / 132 cả nước).

    5. Khoa thi năm ất Dậu, Minh Mạng thứ 6 (1825), Hà Nội có 14 người đỗ, (14 / 55 khu vực; / 117 cả nước).

    6. Khoa thi năm Mậu Tý, Minh Mạng thứ 9 (1828), Hà Nội có 17 người đỗ, ( 17 / 50 khu vực;17 / 113 cả nước).

    7. Khoa thi năm Tân Mão, Minh Mạng thứ 12 (1831), Hà Nội có 12 người đỗ, ( 12 / 51 khu vực; 12 / 100 cả nước).

    8. Khoa thi năm Giáp Ngọ, Minh Mạng thứ 15,(1834), Hà Nội có 6 người đỗ, ( 6 / 23 khu vực; 6 / 77 cả nước).

    9. Khoa thi (Ân khoa) năm ất Mùi, Minh Mạng thứ 16 (1835), khoa này tổ chức thi riêng chi trường Gia Định vì năm trước hoãn, lấy đỗ 9 người.

    10. Khoa thi năm Đinh Dậu, Minh Mạng thứ 18 (1837), Hà Nội có 7 người đỗ, (7 / 16 khu vực; 7 / 90 cả nước).

    11. Khoa thi (Ân khoa), năm Canh Tý, Minh Mạng thứ 21 (1840), Hà Nội có 6 người đỗ, ( 6 / 14 khu vực; 6 / 81 cả nước).

        ([1]). Cảc trường thi Hương thường tổ chức thi cho thí sinh ở nhiều tỉnh. Có khi vì một lý do nào đó còn tổ chức cho từ 1-2 trường thi chung trong một khoa thi.

    12. Khoa thi (Ân khoa), năm Tân Sửu, Thiệu Trị thứ 1 (1841), Hà Nội có 7 người đỗ, (7/11 khu vực; 7/144 cả nước).

    13. Khoa thi (Ân khoa), năm Nhâm Dần, Thiệu Trị thứ 2 (1842), Hà Nội có 3 người đỗ, (3/16 khu vực; 3 / 108 cả nước).

    14. Khoa thi năm Quý Mão, Thiệu Trị thứ 3 (1843), Hà Nội có 8 người đỗ, ( 8 / 21 khu vực; 8 / 121 cả nước).

    15. Khoa thi năm Bính Ngọ, Thiệu Trị thứ 6 (1846), Hà Nội có 9 người đỗ, ( 9 / 23 khu vực; 9 / 132 cả nước).

    16. Khoa thi (Ân khoa), năm Đinh Mùi, Thiệu Trị thứ 7 (1847), Hà Nội có 9 người đỗ, ( 9 / 26 khu vực; 9 / 135 cả nước).

    17. Khoa thi (Ân khoa), năm Mậu Thân, Tự Đức thứ 1 (1848), Hà Nội có 10 người đỗ, ( 10 / 28 khu vực; 10 / 165 cả nước).

    18. Khoa thi năm Kỷ Dậu, Tự Đức thứ 2 (1849), chỉ có trường Gia Định thi, các trường khác hoãn, có 17 người đỗ.

    19. Khoa thi năm Canh Tuất, Tự Đức thứ 3 (1850), các trường năm

    trước hoãn, nay thi. Hà Nội có 10 người đỗ, ( 10 / 28 khu vực; 10 / 143 cả nước).

    20. Khoa thi năm Nhâm Tý, Tự Đức thứ 5 (1852), Hà Nội có 5 người đỗ, ( 5/22 khu vực; 5 / 118 cả nước).

    21. Khoa thi năm ất Mão, Tự Đức thứ 8 (1855), Hà Nội có 9 người đỗ, ( 9/22 khu vực; 9/119 cả nước).

    22. Khoa thi năm Mậu Ngọ, Tự Đức thứ 11 (1858), Hà Nội có 7 người đỗ, ( 7 / 22 khu vực; 7 / 120 cả nước).

    23. Khoa thi năm Tân Dậu, Tự Đức thứ 14 (1861), trường Thanh Hoá thi chung với trường Hà Nội. Hà Nội có 8 người đỗ, ( 8 /34 khu vực; 8 / 102 cả nước).

    24. Khoa thi năm Giáp Tý, Tự Đức thứ 17 (1864), Hà Nội có 5 người đỗ, ( 5 / 24 khu vực; 5 / 117 cả nước).

    25. Khoa thi năm Đinh Mão, Tự Đức thứ 20 (1867), Hà Nội có 5 người đỗ, ( 5 / 26 khu vực; 5 / 139 cả nước).

    26. Khoa thi (Ân khoa), năm Mậu Thìn, Tự Đức thứ 21 (1868), Hà Nội có 10 người đỗ, (10 / 24 khu vực; 10 / 129 cả nước).

    27. Khoa thi năm Canh Ngọ, Tự Đức thứ 23 (1870), Hà Nội có 11 người đỗ, ( 11 / 26 khu vực; 11 / 131 cả nước).

    28. Khoa thi năm Quý Dậu, Tự Đức thứ 26 (1873), trường Hà Nội và Nam Định có biến không thi. Các nơi khác thi có 78 người đỗ.

    29. Khoa thi năm Giáp Tuất, Tự Đức thứ 27 (1874), trường Hà Nội và Nam Định năm trước hoãn, năm nay thi, có 50 người đỗ, ( Hà Nội 25, Nam Định 25).

    30. Khoa thi năm Bính Tý, Tự Đức thứ 29 (1876), Hà Nội có 16 người đỗ, (16 / 25 khu vực; 16 / 118 cả nước).

    31. Khoa thi (Ân khoa) năm Mậu Dần, Tự Đức thứ 31 (1878), Hà Nội có 14 người đỗ, ( 14 / 18 khu vực; 14 / 121 cả nước).

    32. Khoa thi năm Kỷ Mão, Tự Đức thứ 32 (1879), Hà Nội có 14 người đỗ, ( 14 / 25 khu vực; 14 /122 cả nước).

    33. Khoa thi năm Nhâm Ngọ, Tự Đức thứ 35 (1882), trường Hà Nội và Nam Định có biến không thi. Các nơi khác thi có 77 người đỗ.

    34. Khoa thi năm Giáp Thân, Kiến Phúc thứ 1 (1884), trường Hà Nội và Nam Định thi chung, địa điểm thi ở trường Thanh Hoá. Hà Nội có 21 người đỗ, ( 21 / 52 khu vực; 21 / 139 cả nước).

    35. Khoa thi (Ân khoa) năm Bính Tuất, Đồng Khánh thứ 1 (1886), trường Hà Nội, Nam Định và sĩ tử Ninh Bình thi chung có 74 người đỗ, Hà Nội có 16 người đỗ ( 16 / 74 khu vực; / cả nước).

    36. Khoa thi năm Đinh Hợi, Đồng Khánh thứ 2 (1887), trường Thừa Thiên thi, có 29 người đỗ.

    37. Khoa thi năm MậuTý, Đồng Khánh thứ 3 (1888), trường Hà Nội và Nam Định thi chung. Hà Nội có 24 người đỗ, ( 24 / 56 khu vực; 24 /133 cả nước).

    38. Khoa thi năm Tân Mão, Thành Thái thứ 3 (1891), trường Hà Nội và Nam Định thi chung, Hà Nội có 23 người đỗ, ( 23 / 79 khu vực; 23 /150 cả nước).

    39. Khoa thi năm Giáp Ngọ, Thành Thái thứ 6 (1894), Hà Nội có 16 người đỗ, ( 16/ 60 khu vực; 16/ 148 cả nước).

    40. Khoa thi năm Đinh Dậu, Thành Thái thứ 9 (1897), Hà Nội có 18 người đỗ, (18 / 80 khu vực; 18 / 164 cả nước).

    41. Khoa thi năm Canh Tý, Thành Thái thứ 12 (1900), trường Hà Nội và Nam Định thi chung, Hà Nội có 11 người đỗ, ( 11 / 90 khu vực; 11 /204 cả nước).

    42. Khoa thi năm Quý Mão, Thành Thái thứ 15 (1903), trường Hà Nội và Nam Định thi chung. Hà Nội có 10 người đỗ, ( 10 / 50 khu vực; 10 /135 cả nước).

    43. Khoa thi năm Bính Ngọ, Thành Thái thứ 18 (1906), trường Hà Nội và Nam Định thi chung. Hà Nội có 7 người đỗ, ( 7 / 50 khu vực; 7 /158 cả nước).

    44. Khoa thi năm Kỷ Dậu, Duy Tân thứ 3 (1909), Hà Nội có 4 người đỗ, ( 4 / 50 khu vực; 4 /134 cả nước).

    45. Khoa thi năm Nhâm Tý , Duy Tân thứ 6 (1912), Hà Nội có 5 người đỗ, (5 / 49 khu vực; 5 /116 cả nước).

    46. Khoa thi năm ất Mão, Duy Tân thứ 9 (1915), Hà Nội có 11 người đỗ, ( 11 / 40 khu vực; 11 /126 cả nước).

    47. Khoa thi năm Mậu Ngọ, Khải Định thứ 3 (1918). Đây là khoa thi cuối cùng. Trường Hà Nam đình bãi. Cả nước có hai trường thi là trường Thừa Thiên và Bình Định thi chung; trường Nghệ An và Thanh Hoá thi chung. Tất cả lấy đỗ 59 người.

    Bảng thống kê số lượng đỗ Cử nhân của các trường thi thời Nguyễn.

    Đơn vị tính: Người

    Số

    TT

    Đời

    vua

    Số

    khoa

    thi

    Số

    người

    đỗ

    Số Số lượng đỗ Cử nhân của các trường

    Nội

    Sơn

    Nam

    Nam

    Định

    Thanh

    Hóa

    Nghệ

    An

    Thừa

    Thiên

    Bình

    Định

    Gia

    Định

    An

    Giang

    1

    Gia

    Long

    3

    225

    46

    102

     

    27

    34

    26

     

    20

     

    2

    Minh

    Mạng

    8

    731

    144

    122

    45

    53

    127

    152

     

    88

     

    3

    Thiệu

    Trị

    5

    600

    97

     

    100

     

    110

    209

     

    84

     

    4

    Tự

    Đức

    17

    1851

    339

     

    320

    205

    315

    445

    145

    72

     

    5

    Kiến

    Phúc

    1

    139

    52

     

     

    16

    22

    31

    18

     

     

    6

    Đồng

    Khánh

    3

    238

    130

     

     

     

    37

    71

     

     

     

    7

    Thành

    Thái

    6

    959

    400

     

     

    96

    146

    198

    119

     

     

    8

    Duy

    Tân

    3

    376

    110

     

     

    42

    76

    96

     

    52

     

    9

    Khải

    Định

    1

    59

     

     

     

    10

    15

    22

     

    12

     

     

    Cộng

    47

    5208

    1318

    224

    468

    449

    882

    1250

    282

    328

    10

     

    Bảng so sánh số lượng, tỉ lệ Cử nhân

    Thăng long- Hà Nội thời Nguyễn.

    Số

    TT

    Đời

    vua

    Thăng Long

    Hà Nội

    Khu

    Vực

    Tỉ lệ

    %

    Cả

    nước

    Tỷ lệ

    %

    1

    Gia Long

    (1802-18190 )

    40

    65

    62%

    255

    18%

    2

    Minh Mạng

    (1820-1840)

    67

    266

    25%

    731

    9%

    3

    Thiệu Trị

    (1841-1847)

    36

    86

    42%

    600

    6%

    4

    Tự Đức

    (1848-1883)

    141

    377

    37%

    1851

    8%

    5

    Kiến Phúc

    (1883-1884)

    21

    52

    40%

    139

    15%

    6

    Kiến Phúc

    (1886-1888)

    40

    130

    31%

    238

    17%

    7

    Thành Thái

    (1889-1907)

    85

    409

    21%

    959

    9%

    8

    Duy Tân

    (1907-1916)

    20

    139

    14%

    376

    5%

    9

    Khải Đinh (1916-1925)

     

     

     

     

    59

     

     

    Cộng

    450

    1524

    30%

    5208

    9%

     

    II. Thi Hội. Nhà Nguyễn lập kinh đô ở Huế. Tất cả các kỳ thi Hội đều được tổ chức ở kinh thành. Thi Đình quy định thi tại sân rồng trong cung điện nhà vua.

    Định kỳ và thể thức thi vẫn theo quy định của nhà Lê, nhưng theo lệ “tứ bất” (bốn không) do Gia Long đặt ra là : Không lập Hoàng hậu; không đặt Tể tướng; không lấy Trạng nguyên và không phong tước vương cho người ngoài Hoàng tộc. Năm Nhâm Ngọ (1822), vua Minh Mạng tổ chức khoa thi Hội đầu tiên dưới triều Nguyễn. Như vậy người thi đỗ đầu kỳ thi không được mang danh hiệu Trạng nguyên mà chỉ có danh hiệu từ Bảng nhãn trở xuống.

    1. Thời gian thi.

    Đời Gia Long chưa tổ chức thi Hội. Đến năm Minh Mạng thứ 3, năm
    Nhâm Ngọ (1822), nhà Nguyễn mới bắt đầu mở khoa thi Hội, thi Đình các khoa thi mở vào các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, lấy Tiến Sĩ và định phép thi. Ngoài ra nhà Nguyễn cũng mở nhiều “Ân khoa” thường tổ chức bất thường. Các khoa thi này thường được tổ chức vào mùa Xuân nên còn được goị là Xuân vi. Vào kỳ thi Hội đầu tiên tổ chức vào tháng 3, trường thi dựng ở phía Nam Kinh thành. Ngày thi cũng thay đổi theo từng khoa. Khoa thi đầu tiên, ngày 28 tháng 3 thi trường nhất; ngày mồng 6 tháng 4 thi trường nhì; 14 tháng 4 thi trường ba; 20 tháng 4 thi trường tư; 25 yết bảng.Từ năm Minh Mạng thứ 3 tức năm Nhâm Ngọ (1822), đến năm Khải Định thứ 4 (1919), nhà Nguyễn tổ chức được 39 khoa thi Hội, lấy đỗ được 558 người.

    2. Điều kiện dự thi.

    Nhưng thí sinh muốn được dự kỳ thi Hội phải có những điều kiện như sau:

    - Thí sinh được ph p dự kỳ thi bao gồm những Cử nhân các khoá thi trước và Hương cống triều Lê chưa ra làm quan. Những người ở quê thì do quanđịa phương lập danh sách trình lên bộ Lễ, còn đang có chức vụ thì đường quan nơi làm việc lập danh sach trình lên. Đến năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), những người xuất thân từ Giám sinh, Tú tài nếu sát hạch mà trúng cách thì cũng được dự thi Hội.

    - Những Cống sinh, ấm sinh, Tôn sinh tại Quốc Tử Giám qua kỳ khảo hạch dự vào hạng Ưu, Bình thì chuẩn cho thi, nhưng phải lập danh sách trình lên Vua xét.

    - Những Cống sinh do các trấn đề cử, giao chocác quan ở Quốc Tử Giám mở kỳ phúc hạch, nếu tinh thông văn tứ trường ,cấp cho lương ăn để học tập, đợi đến gần kỳ thi sẽ sát hạch lại, nếu dự vào hạnhcao sẽ lập danh sách cho dự thi.

    - Những Huấn đạo, Giáo thụ giảng dạy xuất thân Tú tài; những Cống sinh, ấm sinh, Tôn sinh đỗ Tú tài, giao những Giáo quan ở Quốc Tử Giám sát hạch, nếu xếp hạng Ưu, Bình thì cho vào dự thi

    Những hạng trên sẽ không được thi nếu:

    - Chịu tang cha, mẹ, ông bà nội (nếu là người thừa trọng).

    - Đỗ Cử nhân gữi chức vụ nhưng phạm lỗi, bị cách chức.

    Riêng những người đỗ Cử nhân năm trước, nếu không dự thi phải làm giấy cáo quan nêu rõ lý do tại sao không dự thi.. Danh sách thí sinh được lập thành ba bảng Giáp, ất và Bính. Một bản giao Văn Thư phòng (sau là Nội Các), một bản lưu giữ ở bộ Lễ để căn cứ vào đó mà thu quyển thi, một bản đến kỳ thi quan trường căn cứ vào đó để chia vi, xướng danh, phát quyển thi.

    2. Quyển thi.

    Khi danh sách thí sinh của các địa phương cùng Quốc Tử Giám chuyển đến bộ Lễ, bộ sẽ lập danh sách chung trình lên vua rồi chuyển đến trường thi. Trong khoa thi Hội đầu tiên các thí sinh đến tại bộ Lễ đóng quyển thi. Giáy đóng quyển thi là giấy quan lệnh. Trường nhất, nhì, ba mỗi quyển 10 tờ. Trường tư mỗi quyển 30 tờ. Song song với quyển thi phải đóng 4 Châu quyển cũng dùng giấy quan lệnh để sau các quan Lại điển dùng “son” (màu đỏ) ch p bài của thí sinh vào đó. Trong quyển thi thí sing phải điền tên tuổi, quê quán, tam đại như thi Hương”và phải ghi là Cử nhân khoa nào hoặc xuất thân từ Quốc Tử Giám.

    Sau này khi thi Hội chỉ còn ba trường thì số quyển thi cũng giảm đi và quyển thi do bộ Lễ sai đóng và có kích thước đồng loạt giống nhau. Nhưng đến năm Tự Đức thứ 21, Mậu Thìn (1868), thí sinh phải đóng quyển thi.

    3. Vào trường thi.

    Số thi sinh dự thi Hội không đông lắm. Kỳ thi đầu tiên năm1822 chỉ có 164 người. Khoa thi đông là khoa thi năm Tân Mùi (1871), Tự Đức thứ 24 có 364 người. Khu vực thi chia làm 2 vi Giáp , ất hoặc Tả, Hữu. Ban đầu vi Tả dành cho những người đậu Hương cống đời Gia Long, vi Hữu dành cho những người đậu Hương cống đời Lê. Về sau vi Giáp dành cho những Cử nhân, giám sinh ở Kinh và Tả kỳ (từ Bình Đinh đến Bình Thuận), còn vi ất ở Hữu kỳ (Hà Tĩnh trở ra Bắc).

    Trước khi vào trường thi, thí sinh ở vi nào sẽ yết rõ tên để hôm sau xướng danh mà vào. . Bắt đầu từ canh năm đầu khắc (chừng 3 giờ sáng), thí sinh phải tập trung nghe gọi tên.. Trường thi được canh phòng cẩn mật. Thí sinh không phải đem bất kỳ thứ gì vào trường thi. Tất cả lều chõng, giấy mực, ăn uống đã có người lo hết.

    4. Cách tổ chức làm bài thi Hội. Thí sinh được ph p dự kỳ thi bao gồm những Hương cống các khoá thi trước và Hương cống triều Lê chưa ra làm quan. Đến năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), những người xuất thân từ Giám sinh, Tú tài nếu sát hạch mà trúng cách thì cũng được dự thi Hội. Từ đó trở đi đến năm 1919 chấm dứt thi cử theo lệ cũ. Thi Hội chia ra bốn kỳ:

    - Kỳ I: 5 đề kinh nghĩa, 1 đề truyện nghĩa.

    - Kỳ II: Chiếu, chế, biểu - mỗi thứ một đề.

    - Kỳ III: Một đề thơ ngũ ngôn cổ thể, một đề phú 8 vần.

    - Kỳ IV: Một đề văn sách về cổ văn 10 đoạn hoặc làm về kim văn.

    Tới kỳ thi Hội, các Cử nhân trong cả nước được về dự thi (kể cả các người đã dự kỳ trước nhưng không đỗ). Thi Hội cũng chia ra 4 kỳ, ai đậu kỳ trước mới được vào thi kỳ sau. Người đậu thi Hội chưa được phong học vị, chỉ được quyền lợi vào thi Đình (và chỉ được dự một khoa thi Đình đó mà thôi. Nếu thi Đình không đạt chỉ còn lại học vị Cử nhân. Muốn có học vị Tiến sĩ thì các khoa thi Hội sau người đó lại phải thi lại từ kỳ thi thứ nhất). Thi Hội học sinh không phải mang lều chõng như thi Hương mà được bố trí trước từ lúc ghi tên lập danh sách dự kỳ thi Hội.

    5. Cách chấm thi.

    Từ khoa thi đầu tiên vào năm Nhâm Ngọ (1822) và khoa thi năm Bính Tuất (1826), việc chấm các quyển thi cũng dựa vào các lời phê Ưu, Bình, Thứ, Liệt. Thi Hội gồm 4 trường, quán quyển cả 4 trường để định hỏng đỗ.

    Căn cứ vào lời phê trên 4 quyển thi mà xếp hạngnhư sau:

    - Hạng nhất: 4 quyển Ưu.

    - Hạng hai: 3 Ưu, 1 Bình.

    - Hạng ba: 2 Ưu, 2 Bình rồi đến 2 Ưu, 1 Bình, 1 Thứ ; 2Ưu, 2 Thứ ; 1 Ưu, 3 Bình; 3 Ưu, 1 Liệt”

    Riêng quyển trường tư là quan trọng nhất. Nếu quyển trường tư bị Liệt thì dù quyển 3 trường trước đạt Ưu vẫn bị loại.

    Đến khoa Kỷ Sửu (1829), Minh Mạng định lại phép chấm và lấy đỗ ở kỳ thi Hội, đặt thêm học vị Phó bảng để ban cho những thí sinh cộng chung

    4 kỳ thi Hội được từ 9 điểm đến 4 điểm (theo thứ tự trên xuống), hoặc kỳ thứ 4 bị loại nhưng cộng cả 3 kỳ trước vẫn đạt 10 điểm.

    Trước đây khi chấm quyển thi, định sự cao thấp về văn lý, quan trường chia thành : ưu- bình- thứ- liệt; nay đổi thành “phân tố”.

    - Văn lý ưu là 10 phân hoặc 9 phân;

    - Văn lý ưu thứ là 8 phân hoặc 7 phân;

    - Văn lý bình là 6 phân hoặc 5 phân;

    - Văn lý bình thứ là 4 phân hoặc 3 phân;

    - Văn lý thứ là 2 phân hoặc 1 phân;

    - Văn lý liệt là không đủ 1 phân.

    Nếu đạt 40 phân trở xuống, 10 phân trở lên mà 4 kỳ đều có phân tố thì xếp vào hạng trúng cách. Văn lý 3 kỳ cộng được 10 phân trở lên, mà một kỳ không đủ 1 phân; cùng 4 kỳ không cộng đủ 10 phân mà các thể văn làm đủ, cộng được 4 phân trở lên đến 9 phân thì xếp vào hạng Phó bảng ( Đại nam thực lục chính biên, Nxb KhXH, HN 1968, T IX, tr 197,198). Như vậy danh hiệu Phó bảng bắt đầu có từ năm 1829. Nhưng những người đậu Phó bảng không được dự thi Đình.

    Đến năm Nhâm Tý, Tự Đức thứ 5 (1852), thi Hội lại dùng ph p thi 4 kỳ, theo kỳ ra bảng. Khoa thi Hội năm Quý Sửu, Tự Đức thứ 6 (1853), lại định ai qua được kỳ trước mới được vào kỳ sau (trước vẫn tính gộp), trúng cả 4 kỳ được vào thi Đình. Thi Đình được từ 4 điểm trở lên được ban danh hiệu Tiến Sĩ, được 3 điểm trở xuống được ban danh hiệu Phó bảng. Thi Hội, đến năm Tự Đức thứ 29 (1876), quy định ai qua được 2 kỳ hoặc kỳ thứ nhất có điểm cũng đượcvào kỳ thứ 3, qua được3 kỳ hoặc trong đó có 2 kỳ có điểm cũng được vào kỳ thứ 4. Được 8 điểm trở lên là Chánh trúng cách, được 7 điểm trở xuống hoặc cùng 3 kỳ trước được 10 điểm trở lên là Thứ trúng cách, đều được vào thi Đình; nếu được 3 điểm trở lên được ban danh hiệu Tiến sĩ, 2 điểm trở xuống được ban danh hiệu Phó bảng.

    III. Thi Đình.

    Thi Đình do vua ra đề và làm chủ khảo. Số lượng dự thi thường không tới trăm người. Thí sinh dự thi không phải mang theo bất kỳ thứ gì. Tại sân

    rồng đã có đủ bàn ghế, giấy bút. Thức ăn thì được vua ban. Đề thi Đình thường rất khó có khi đề ra hỏi về một vấn đề triều đình đang quan tâm như dẹp loạn, khai hoang, chính sách thuế khoá (đời Vua Tự Đức có lần hỏi vấn đề nên hoà hay chiến với Pháp).

    1. Điều kiện dự thi. Những thí sinh đỗ kỳthi Hội (gọi là Trúng cách hoặc Chánh trúng cách) sẽ được vào thi Đình. Sau khi yết bảng thi Hội, các quan Chủ khảo, Tri cống căn cứ vào điểm thi của thí sinh lập bảng Giáp và bảng ất. Bảng Giáp ghi danh những người đỗ chính thức, bảng ất ghi danh những người lấy đỗ Phó bảng. Những người có tên trong bảng Giáp được dự kỳ thi Đình. Đến năm Minh Mạng thứ 20 tức năm Canh Thìn (1840), thì những người đỗ Phó bảng được dự thi Đình.

    2. Địa điểm thi. Thi Đình còn gọi là Điện thí vì thi tại điện ở trong cung. Đời Minh Mạng, các thí sinh dự thi tại Tả, Hữu Vu bên sân điện Cần Chánh. Đến đời TựĐức thứ 9, Bính Thìn (1856) cho tổ chức tại điện Khâm Văn trong vườn Cơ Hạ Nhưng sau lại đổi về điện Cần Chánh.

    3. Quyển thi. Quyển thi và quyển nháp đều do bộ Lễ cấp. Mỗi quyễn gồm 30 tờ. Mỗi trang chia thành 8 dòng. Mỗi dòng viết được 24 chữ. Quyển thi và quyển nháp hầu như không thay đổi.. Trước ngày thi 5 hôm,thí sinh đến bộ Lễ để viết họ tên, quê quán và khai tam đại rồi bỏ vào hòm cùng quyển nháp gởi đến nơi thi trước một ngày.

    4. Ngày thi. Ngày thi ấn định tuỳ thuộc kỳ thi Hội trước đó. Về sau ấn định cách ngày yết bảng thi Hội chừng 10-15 ngày tổ chức thi Đình.

    5. Vào trường thi. Đến ngày thi từ canh năm (khoảng 3 giờ sáng), các thí sinh tụ tập tại Tả Túc Môn và Hữu Túc Môn nghe đọc tên và số. Số lẻ sẽ vào cửa trái,số chẵn sẽ vào cửa phải. Đến giờ thi, sau khi làm các nghi lễ, các Thư tả mang quyển thi lẫn quyển nháp và đề thi cấp phát cho thí sinh. Làm bài xong thí sinh nộp cho viênTuần la rồi ra về.

    6. Chấm thi. Tại kỳ thi này chỉ có 1 quyển thi, chem. điểm số để phân thứ hạng. Năm Minh Mạng thứ 10 Kỷ Sửu (1829) quy định như sau:

    - Bậc một (Đệ nhất giáp):

    +. 10 điểm: Lấy đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập Đệ nhất danh, thường gọi là Trạng nguyên.

    +. 9 điểm: Lấy đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập Đệ nhị danh, thường gọi là Bảng nhãn.

    +. 8 điểm: Lấy đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập Đệ tam danh, thường gọi là Thám hoa.

    - Bậc nhì (Đệ nhị giáp): 7 điểm đến 6 điểm: Lấy đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, thường gọi là Hoàng giáp.

    - Bậc ba (Đệ tam giáp): 5 điểm trở xuống: Lấy đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân, gọi tắt là Tiến sĩ.

    Năm Tự Đức thứ 4 Tân Hợi (1851), 4 điểm trở lên ban cho đỗ Tiến sĩ, 3 điểm trở xuống ban cho đỗ Phó bảng. Năm Tự Đức thứ 18 ất Sửu (1865), 3 điểm trở lên ban cho đỗ Tiến Sĩ, 2 điểm trở xuống ban cho đỗ Phó bảng.

    Đến đầu đời Thành Thái, quy địnhđiểm khá rộng rãi:

    -     10 điểm: Lấy đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ nhất danh.

    -     8 đến 9 điểm: Lấy đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập Đệ nhị danh.

    -     6 đến 7 điểm: Lấy đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập Đệ tam danh.

    -     4 đến 5 điểm: Lấy đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân.

    -     3 điểm : Lấy đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩxuất thân.

    -     1 đến 2 điểm: Lấy đỗ Phó bảng.

    Tuy nhiên quy định này cũng không gò bó, và không cứng nhắc mà còn tuỳ thuộc vào từng khoa thi.

    Khi đã chấm xong, phải đưa cho vua x t duyệt. Danh sách những người đỗ lập thành hai bản: Một bản giao cho Nội các lưu giữ. Một bản để dùng trong ngày Truyền lô và niêm yết.

    IV. Kỳ thi Chế khoa.

    Ngoài việc tổ chức thi Hội để chọn người tài triều Nguyễn còn tổ chức thêm nhiều khoa thi như các khoa thi Chế khoa (còn gọi là Cát Sĩ, Nhã sĩ, Ân khoa, Bác học Hoành tài).

    Các kỳ thi này không định kỳ. Ph p thi, cách chấm thi, các quy tác trường quy”về cơ bản như kỳ thi Hội.

    Thí sinh trong các kỳ thi này có thể là Cử nhân; Giám sinh ở Quốc Tử Giám đã qua được khảo hạch; Tuy không định kỳ như thi Hội, nhưng những người đỗ đạt cũng được ban các danh hiệu cao quý và được hưởng các đặc ân như thi Hội.

    Những người trúng tuyển được ban các học vị:

    - Bác học Hoành tài Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, gồm 2 hạng: Đệ nhị danh, tương đương Bảng nhãn và Đệ tam danh tương đương Thám hoa.

    - Đệ nhị giáp Tiến sĩ cập đệ (tương đương Hoàng giáp).

    - Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân.

    V. Các kỳ thi Hội, số lượng đỗ Đại khoa của cả nước và củaThăng Long- Hà Nội thời Nguyễn.

    Triều Nguyễn tổ chức được 39 khoa thi Hội. Đời Minh Mạng có 6 khoa thi (lấy đỗ 76 người). Đời Thiệu Trị có 5 khoa thi (Lấy đỗ 79 người). Đời Tự Đức có 16 khoa thi (lấy đỗ 206 người). Đời Kiến Phúc có 1 khoa thi (lấy đỗ 7 người). Đời Thành Thái có 6 khoa thi (lấy đỗ 108195 người). Đời Duy Tân có 3 khoa thi (lấy đỗ 46 người). Đời Khải Định có 2 khoa thi (lấy đỗ 36 người). Tất cả lấy đỗ được 558 người. Trong số 558 người đỗ Đại khoa có 292 Tiến sĩ ( Đệ nhất giáp 11 người: 2 Bảng nhãn, 9 Thám hoa; Đệ nhị giáp- Hoàng giáp 54 người; Đệ tam giáp (Đồng Tiến sĩ xuất thân) 227 người), 266 Phó bảng. Trong số các sĩ tử Thăng Long- Hà Nội “lều chõng” đi thi tại Huế có 39 người được vinh dự đạt học vị từ Phó bảng trở lên tại 22 khoa thi (các khoa thi cuối cùng của triều Nguyễn tổ chức vào các năm 1916,1919, Hà Nội không có người đỗ).

    A. Các Khoa thi Hội trong thời Nguyễn:

    1.   Khi khoa thi năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Minh Man thứ 3(1822) lấy đỗ 8 người).

    2.   Khoa thi năm Bính Tuất, niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1826), lấy đỗ 10 người. Hà Nội có 3 người đỗ.

    3.   Khoa thi năm Kỷ Sửu, niên hiệu Minh Mạng thứ 10 (1829), lấy đỗ 14 người (có 5 Phó bảng). Từ khoa này trở đi lấy thêm học vị Phó bảng. Hà Nội có 1 người đỗ (Phó bảng).

    4.   Khoa thi năm Nhâm Thìn, niên hiệu Minh Mạng thứ 13 (1832), lấy đỗ 11 người (có 3 Phó bảng). Hà Nội có 2 người đỗ.

    5.   Khoa thi năm ất Mùi niên hiệu Minh Mạng thứ 16 (1835), lấy đỗ 13 người (có 2 Phó bảng). Hà Nội có 1 người đỗ.

    6.   Khoa thi năm Mậu Tuất, niên hiệu Minh Mạng thứ 19 (1838), lấy đỗ 20 người (có 10 Phó bảng). Hà Nội có 2 người đỗ (1 Phó bảng).

    7.   Khoa thi năm Tân Sửu, niên hiệu Thiệu Trị thứ 1 (1841), lấy đỗ 15 người (có 4 Phó bảng). Hà Nội có 3 người đỗ (1 Phó bảng).

    8.   Khoa thi năm Nhâm Dần, niên hiệu Thiệu Trị thứ 2 (1842), lấy đỗ 19 người (có 6 Phó bảng). Hà Nội có 1 người đỗ.

    9.   Khoa Ân khoa, thi năm Quý Mão, niên hiệu Thiệu Trị thứ 3 (1843), lấy đỗ 9 người (có 2 Phó bảng). Hà Nội có 1 người đỗ.

    10. Khoa thi năm Giáp Thìn, niên hiệu Thiệu Trị thứ 4 (1844), lấy đỗ 25 người (có 15 Phó bảng). Hà Nội có 2 người đỗ.

    11. Khoa thi năm Đinh Mùi, niên hiệu Thiệu Trị thứ 7 (1847), lấy đỗ 11 người (có 4 Phó bảng). Hà Nội có 3 người đỗ (1 Phó bảng).

    12. Khoa Ân khoa, thi năm Mậu Tuất, niên hiệu Tự Đức thứ 1 (1848), lấy đỗ 22 người (có 14 Phó bảng).

    13. Khoa thi năm Kỷ Dậu, niên hiệu Tự Đức thứ 2 (1849), lấy đỗ 24 người (có 12 Phó bảng). Hà Nội có 5 người đỗ (2 Phó bảng).

    14. Khoa thi năm Tân Hợi, niên hiệu Tự Đức thứ 4 (1851), lấy đỗ 20 người (có 10 Phó bảng). Hà Nội có 1 người đỗ.

    15. Khoa (Chế khoa Cát sĩ), thi năm Tân Hợi, niên hiệu Tự Đức thứ 4 (1851), lấy đỗ 7 người. Hà Nội có 1 người đỗ.

    16. Khoa thi năm Quý Sửu, niên hiệu Tự Đức thứ 6 (1853), lấy đỗ 13 người (có 6 Phó bảng).

    17. Khoa thi năm Bính Thìn, niên hiệu Tự Đức thứ 9 (1856), lấy đỗ 7 người (có 1 Phó bảng).

    18. Khoa thi năm Nhâm Tuất, niên hiệu Tự Đức thứ 4 (1862), lấy đỗ 11 người (có 5 Phó bảng).

    19. Khoa thi năm ất Sửu, niên hiệu Tự Đức thứ 18 (1865), lấy đỗ 15 người (có 12 Phó bảng). Hà Nội có 3 người đỗ (1 Phó bảng).

    20. Khoa Nhã sĩ, thi năm ất Sửu, niên hiệu Tự Đức thứ 18 (1865), lấy đỗ 5 người .

    21. Khoa thi năm Mậu Thìn, niên hiệu Tự Đức thứ 21 (1868), lấy đỗ 16 người (có 12 Phó bảng). Hà Nội có 1 người đỗ.

    22. Khoa Ân khoa, thi năm Kỷ Tỵ, niên hiệu Tự Đức thứ 22 (1869), lấy đỗ 9 người (có 4 Phó bảng).

    23. Khoa thi năm Tân Mùi, niên hiệu Tự Đức thứ 24 (1871), lấy đỗ 8 người (có 5 Phó bảng). Hà Nội có 1 người đỗ.

    24. Khoa thi năm ất Hợi, niên hiệu Tự Đức thứ 28 (1875), lấy đỗ 17 người (có 6 Phó bảng). Hà Nội có 1 người đỗ Phó bảng.

    25. Khoa thi năm Đinh Sửu, niên hiệu Tự Đức thứ 30 (1877), lấy đỗ 7 người

    26. Khoa thi năm Kỷ Mão, niên hiệu Tự Đức thứ 32 (1879), lấy đỗ 14 người ((có 3 Phó bảng).có 8 Phó bảng). Hà Nội có 1 người đỗ.

    27. Khoa thi năm Canh Thìn, niên hiệu Tự Đức thứ 33 (1880), lấy đỗ 10 người (có 5 Phó bảng).

    28. Khoa Ân khoa, thi năm Giáp Thân, niên hiệu Kiến Phúc thứ 1 (1884), lấy đỗ 7 người (có 4 Phó bảng).

    29. Khoa thi năm Kỷ Sửu, niên hiệu Thành Thái thứ 1 (1889), lấy đỗ 22 người (có 10 Phó bảng). Hà Nội có 2 người đỗ (1 Phó bảng).

    30. Khoa thi năm Nhâm Thìn, niên hiệu Thành Thái thứ 4 (1892), lấy đỗ 16 người (có 7 Phó bảng).

    31. Khoa thi năm ất Mùi, niên hiệu Thành Thái thứ 7 (1895), lấy đỗ 20 người (có 12 Phó bảng). Hà Nội có 1 người đỗ.

    32. Khoa thi năm Mậu Tý, niên hiệu Thành Thái thứ 10 (1898), lấy đỗ 17 người (có 9 Phó bảng).

    33. Khoa thi năm Tân Mão, niên hiệu Thành Thái thứ 13 (1901), lấy đỗ 22 người (có 13 Phó bảng). Hà Nội có 1 người đỗ Phó bảng .

    34. Khoa thi năm Giáp Ngọ, niên hiệu Thành Thái thứ 16 (1904), lấy đỗ 11 người (có 5 Phó bảng).

    35. Khoa thi năm Đinh Dậu, niên hiệu Duy Tân thứ 1 (1907), lấy đỗ 13 người (có 6 Phó bảng).

    36. Khoa thi năm Canh Tuất, niên hiệu Duy Tân thứ 4 (1910), lấy đỗ 23 người (có 19 Phó bảng). Hà Nội có 2 người đỗ (1 Phó bảng).

    37. Khoa thi năm Quý Sửu, niên hiệu Duy Tân thứ 7 (1913), lấy đỗ 10 người (có 4 Phó bảng).

    38. Khoa thi năm Bính Thìn, niên hiệu Khải Định thứ 10 (1916), lấy đỗ 13 người (có 6 Phó bảng).

    39. Khoa thi năm Kỷ Mùi, niên hiệu Khải Định thứ 13 (1919), lấy đỗ 23 người (có 16 Phó bảng).

    2. Những người Thăng Long- Hà Nội đỗ các khoa thi Hội.

    1. Hoàng Tế Mỹ (1785-1849).

    Hoàng Tế Mỹ, người xã Đông Ngạc, nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm. Ông đậu Giải nguyên khoa ất Dậu. Khoa Bính Tuất, niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1826), Hoàng Tế Mỹ đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp).

    2. Vũ Tông Phan (1804 -?).

    Vũ Tông Phan, người thôn Tự Tháp, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên, nay thuộc phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm. Ông đậu Cử nhân khoa ất Dậu. Khoa Bính Tuất, niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1826), Vũ Tông Phan đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân .

    3. Nguyễn Văn Thắng (1803-1861).

    Nguyễn Văn Thắng, người phường Yên Thái, huyện Vĩnh Thuận, nay thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ. Ông đậu Cử nhân khoa ất Dậu (1825). Khoa Bính Tuất, niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1826), Nguyễn Văn Thắng đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

    4. Phạm Văn Hợp (1705-?).

    Phạm Văn Hợp, người xã Minh Cảo, nay là thôn Xuân Tảo, xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm. Ông đậu Cử nhân khoa Mậu Tý (1828). Khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Minh Mạng thứ 10 (1829), Phạm Văn Hợp đỗ Phó bảng.

    5. Phạm Gia Chuyên (1791- 1862).

    Phạm Gia Chuyên, người xã Đông Ngạc, nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm. Ông đậu Cử nhân khoa Tân Mão (1831). Khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Minh Mạng thứ 13 (1832), Phạm Gia Chuyên, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

    6. Nguyễn Văn Lý (1795- ?).

    Nguyễn Văn Lý, người phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, nay thuộc phường Trung Tự, quận Đống Đa. Ông đậu Cử nhân khoa ất Dậu (1825). Khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Minh Mạng thứ 13 (1832), Phạm Gia Chuyên, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

    7. Lưu Quỹ (1811-?).

    Lưu Quỹ, người xã Nguyệt áng, nay là thôn Nguyệt áng, xã Đại áng, huyện Thanh Trì. Ông đậu Cử nhân khoa Tân Mão (1831). Khoa ất Mùi niên hiệu Minh Mạng thứ 16 (1835), Lưu Quỹ, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

    8. Nguyễn Văn Tùng (1810- 1840).

    Nguyễn Văn Tùng, người xã Đông Ngạc, nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm. Ông đậu Giải nguyên khoa Đinh Dậu (1837). Khoa Mậu Tuất, niên hiệu Minh Mạng thứ 19 (1838), Nguyễn Văn Tùng , đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

    9. Nguyễn Siêu (Nguyễn Văn Siêu), (1799-1872).

    Nguyễn Siêu, người làng Kim Lũ, nay là thôn Kim Lũ (Lủ Trung), xã Đại Kim, huyện Thanh Trì; trú quán phường Dũng Thọ, huyện Thọ Xương nay thuộc phố Ngõ Gạch, phường Hàng Bạc, quận Hoàn Kiếm. Ông đậu Cử nhân khoa ất Dậu (1825). Khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Minh Mạng thứ 19 (1838), Nguyễn Siêu đỗ Phó bảng.

    10. Ngô Điền (1814-?).

    Ngô Điền, người xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, nay là thôn Tả Thanh Oai, xã Thanh Oai, huyện Thanh Trì. Ông đậu Cử nhân khoa Canh Tý (1840). Khoa Tân Sửu, niên hiệu Thiệu Trị thứ 1 (1841), Ngô Điền, đỗ Hội nguyên Đệ nhị giáp đồng tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp).

    11. Trần Vĩ (1814-?).

    Trần Vĩ, người xã Thượng Cát, nay là thôn Thượng Cát, xã Thượng Cát, huyện Từ Liêm. Ông đậu Cử nhân khoa Canh Tý (1840). Khoa Tân Sửu, niên hiệu Thiệu Trị thứ 1 (1841), Trần Vĩ, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

    12. Vũ Tá An (1816-?).

    Vũ Tá An,người xã Thổ Khối, Nay là thôn Thổ Khối, xã Cự Khối, huyện Gia Lâm. Ông đậu Cử nhân khoa Canh Tý (1840). Khoa Tân Sửu, niên hiệu Thiệu Trị thứ 1 (1841), Vũ Tá An, đỗ Phó bảng.

    13. Hoàng Đình Tá (1816-?).

    Hoàng Đình Tá, người xã Linh Đường, nay là thôn Linh Đàm, xã Hoàng Liệt, huyện Thanh Trì. Ông đậu Cử nhân khoa Canh Tý (1840). Khoa Nhâm Dần, niên hiệu Thiệu Trị thứ 2 (1842), Hoàng Đình Tá, đỗ Đệ nhị giáp đồng tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp).

    14. Vũ Văn Tuấn (1803-1860).

    Vũ Văn Tuấn, người xã Bát Tràng, nay là thôn Bát Tràng, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm. Ông đậu Cử nhân khoa Đinh Dậu (1837). Khoa Quý Mão, niên hiệu Thiệu Trị thứ 3 (1843), Vũ VănTuấn, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

    15. Nguyễn Văn Phú tức Nguyễn Tư Giản (1822-1890). Nguyễn Văn Phú, người xã Du Lâm, huyện Đông Ngàn, nay là thôn Du Nội, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh. Ông đậu Cử nhân khoa Quý Mão (1843). Khoa Giáp Thìn, niên hiệu Thiệu Trị thứ 4 (1844), Nguyễn Văn Phú, đỗ Đệ nhị giáp đồng tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp).

    16. Nguyễn Hữu Tạo (1809-?).

    Nguyễn Hữu Tạo, người xã Đông Ngạc, nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm. Ông đậu Cử nhân khoa Tân Sửu (1841). Khoa Giáp

    Thìn, niên hiệu Thiệu Trị thứ 4 (1844), Nguyễn Hữu Tạo, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

    17. Trịnh Đình Thái (1823-?).

    Trịnh Đình Thái tức Trịnh Lý Hanh, người xã Định Công, nay là thôn Định Công, xã Định Công, huyện Thanh Trì. Ông đậu Cử nhân khoa Bính Ngọ (1846). Khoa Đinh Mùi, niên hiệu Thiệu Trị thứ 7 (1847), Trịnh Đình Thái, đỗ Đệ nhị giáp đồng tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp).

    18. Trịnh Xuân Thưởng (1816-1871).

    Trịnh Xuân Thưởng, người xã Danh Lâm, huyện Đông Ngàn, nay là thôn Thái Bình, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh. Ông đậu Cử nhân khoa Quý Mão (1843). Khoa Đinh Mùi, niên hiệu Thiệu Trị thứ 7 (1847), Trịnh Xuân Thưởng, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

    19. Trương ý (1819-?).

    Trương ý người phường Thịnh Hào, huyện Vĩnh Thuận, nay là phường Hàng Bột, quận Đống Đa. Ông đậu Cử nhân khoa Nhâm Dần (1842). Khoa Đinh Mùi, niên hiệu Thiệu Trị thứ 7 (1847), Trương ý, đỗ Phó bảng.

    20. Lê Đình Diên (1824-1883).

    Lê Đình Diên, người làng Hạ Đình (làng Mọc Cựu), xã Nhân Mục Cựu, huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân. Ông đậu Cử nhân khoa Mậu Thân (1848). Khoa Kỷ Dậu, niên hiệu Tự Đức thứ 2 (1849), Lê Đình Diên, đỗ Đệ nhị giáp đồng tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp).

    21. Hoàng Đình Chuyên (1812-?).

    Hoàng Đình Chuyên, người xã Linh Đường, nay là thôn Linh Đàm, xã Hoàng Liệt, huyện Thanh Trì. Ông đậu Cử nhân khoa Mậu Thân (1848). Khoa Kỷ Dậu, niên hiệu Tự Đức thứ 2 (1849), Hoàng Đình Chuyên, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

    22. Phạm Quang Mãn (1817-1858).

    Phạm Quang Mãn, người xã Đông Ngạc, nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm. Ông đậu Cử nhân khoa Quý Mão (1843). Khoa

    Kỷ Dậu, niên hiệu Tự Đức thứ 2 (1849), Hoàng Đình Chuyên, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

    23. Phạm Tuyến.

    Phạm Tuyến, người xã Đông Dư, nay là thôn Đông Dư, xã Đông Dư, huyện Gia Lâm. Ông đậu Cử nhân khoa Bính Ngọ (1846). Khoa Kỷ Dậu, niên hiệu Tự Đức thứ 2 (1849), Phạm Tuyến, đỗ Phó bảng.

    24. Nguyễn Văn Hội (1825-1865).

    Nguyễn Văn Hội, người xã Đông Ngạc, nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm. Ông đậu Cử nhân khoa Bính Ngọ (1846). Khoa Kỷ Dậu, niên hiệu Tự Đức thứ 2 (1849), Nguyễn Văn Hội , đỗ Phó bảng.

    25. Hoàng Xuân Hiệp (1825-?).

    Hoàng Xuân Hiệp, người phường Dũng Thọ, huyện Thương, nay là phường Hàng Bạc, quận Hoàn Kiếm. Ông đậu Cử nhân khoa Đinh Mùi (1847). Khoa Tân Hợi, niên hiệu Tự Đức thứ 4 (1851), Hoàng Xuân Hiệp, đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, Đệ tam danh (Thám hoa).

    26. Trần Huy Tích (1829-?).

    Trần Huy Tích, người phường Dũng Thọ, huyện Thọ Xương, nay là phố Mã Mây, phường Hàng Bạc, quận Hoàn Kiếm. Ông đậu Cử nhân khoa Canh Tuất (1850). Khoa Cát sĩ năm Tân Hợi, niên hiệu Tự Đức thứ 4 (1851), Trần Huy Tích, đỗ khoa Bác học hoành tài, Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

    27. Hoàng Tướng Hiệp (1836-1885).

    Hoàng Tướng Hiệp, người xã Đông Ngạc, nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm. Ông đậu Cử nhân khoa Mậu Ngọ (1858). Khoa ất Sửu, niên hiệu Tự Đức thứ 18 (1865), HoàngTương Hiệp, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

    28. Nguyễn Tuyên tức là Nguyễn Trọng Hợp (1834-1902).

    Nguyễn Tuyên, người xã Kim Lũ, nay là thôn Kim Lũ (làng Lũ Trung), xã Đại Kim, huyện Thanh Trì. Ông đậu Cử nhân khoa Mậu Ngọ (1858). Khoa ất Sửu, niên hiệu Tự Đức thứ 18 (1865), Nguyễn Tuyên, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

    29. Thành Ngọc Uẩn (1835-1893).

    Thành Ngọc Uẩn, người phường Bạch Mai, huyện Thọ Xương, nay thuộc phường Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng. Ông đậu Cử nhân khoa ất Mão (1855). Khoa ất Sửu, niên hiệu Tự Đức thứ 18 (1865), Thành Ngọc Uẩn, đỗ Phó bảng.

    30. Vũ Nhự (1840-1886).

    Vũ Nhự, người phường Kim Cổ, huyện Thọ Xương, nay thuộc quận Hoàn Kiếm. Ông đậu Cử nhân khoa Tân Dậu (1861). Khoa Mậu Thìn, niên hiệu Tự Đức thứ 21 (1868), Vũ Nhự, đỗ Đình nguyên, Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân Hoàng Giáp).

    31. Nguyễn Kham (1844-1886).

    Nguyễn Kham, người xã Du Lâm, huyện Đông Ngàn, nay là thôn Du Nội, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh. Ông đậu Giải nguyên khoa Canh Tý (1860). KhoaTân Mùi, niên hiệu Tự Đức thứ 24 (1871), Nguyễn Kham, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

    32. Đỗ Huy Điển (1836-?).

    Đỗ Huy Điển, người xã Tây Mỗ, nay là thôn Tây Mỗ, xã Tây Mỗ, huyện Từ Liêm. Ông đậu Cử nhân khoa Canh Ngọ (1870). Khoa ất Hợi, niên hiệu Tự Đức thứ 28 (1875), Đỗ Huy Điển, đỗ Phó bảng.

    33. Nguyễn Dự (1844-1884).

    Nguyễn Dự, người xã Đông Ngạc, nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm. Ông đậu Cử nhân khoa Mậu Dần (1878). Khoa Kỷ Mão, niên hiệu Tự Đức thứ 32 (1879), HoàngTương Hiệp, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

    34. Nguyễn Khuê (1857-?).

    Nguyễn Khuê, người làng Hạ Đình (làng Mọc Hạ), xã Nhân Mục, huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân. Ông đậu Cử nhân khoa Bính Tuất (1878). Khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Thành Thái thứ 1 (1889), Nguyễn Khuê, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

    35. Đặng Tích Trù hay Hữu Trù (1854-?).

    Đặng Tích Trù, người xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, nay là thôn Đa Tốn, xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm. Ông đậu Cử nhân khoa Giáp Thân (1884). Khoa ất Dậu, niên hiệu Hàm Nghi (1885), thi Hội ông đỗ trúng cách. Vào thi Đình chưa kịp yết bảng thì kinh thành thất thủ. Đến khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Thành Thái thứ 1 (1889), Đặng Tích Trù lại dự phúc thi và đỗ Phó bảng.

    36. Nghiêm Xuân Quảng (1869-1941).

    Nghiêm Xuân Quảng, người xã Tây Mỗ, nay là thôn Tây Mỗ, xã Tây Mỗ, huyện Từ Liêm. Ông đậu Cử nhân khoa Giáp Ngọ (1894). Khoa ất Mùi, niên hiệu Thành Thái thứ 7 (1895), Nghiêm Xuân Quảng, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

    37. Lê Đình Xán (1866-?).

    Lê Đình Xán người xã Hạ Đình, huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân. Ông đậu Cử nhân khoa Canh Tý (1900). Khoa Tân Sửu, niên hiệu Thành Thái thứ 3 (1901), Lê Đình Xán, đỗ Phó bảng.

    38. Nguyễn Sĩ Cốc (1888- 1974).

    Nguyễn Sĩ Cốc, người xã Kim Lũ, nay là thôn Kim Lũ (làng Lũ Trung), xã Đại Kim, huyện Thanh Trì. Khoa Canh Tuất, niên hiệu Duy Tân thứ 4 (1910), Nguyễn Sĩ Cốc, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

    39. Hoàng Tăng Bí (1881- 1939).

    Hoàng Tăng Bí, người xã Đông Ngạc, nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm. Ông đậu Cử nhân khoa Bính Ngọ (1906). Khoa Canh Tuất, niên hiệu Duy Tân thứ 4 (1910), Nguyễn Sĩ Cốc, đỗ Phó bảng.

    Bảng kê Số lượng các Tiến sĩ

    Thăng Long- Hà Nội thời Nguyễn so với cả nước.

    Đơn vị tính: Người

     

    Số TT

     

    Triều Vua

    Cả nước

    Thăng Long – Hà Nội

    Số khoa

    Số TS

    Số khoa

    Số TS

    Tỉ lệ

    1

    Minh Mạng

    (1820-1840)

    6

    76

    5

    9

    11,84%

    2

    Thiệu Trị

    (1841-1847)

    5

    79

    5

    10

    12,66%

    3

    Tự Đức

    (1848-1883)

    16

    206

    8

    14

    6,80

    4

    Kiến Phúc

    (1883-1884)

    1

    7

    -

    -

    -

    5

    Thành Thái

    (1889-1907)

    6

    108

    3

    4

    3,70

    6

    Duy Tân

    (1907-1916)

    3

    46

    1

    2

    4,35

    7

    Khải Đinh (1916-1925)

     

    2

    36

    -

    -

    -

     

    Cộng

    39

    558

    22

    39

    6,99

     

    Các Tiến sĩ Thăng Long- Hà Nội

    thời Nguyễn chia theo đơn vị quận, huyện

    Đơn vị tính: Người

    Số TT

    Quận, huyện

    Minh Mạn

    Thiệu Trị

    Tự Đức

    Kiến Phúc

    Thành Thái

    Duy Tân

    Cộng

    1

    Ba Đình

     

     

     

     

     

     

     

    2

    Cầu Giấy

     

     

     

     

     

     

     

    3

    Đông Anh

     

    2

    1

     

     

     

    3

    4

    Đống Đa

    1

    1

     

     

     

     

    2

    5

    Gia Lâm

     

    2

    1

     

    1

     

    4

    6

    HaiBàTrưng

     

     

    1

     

     

     

    1

    7

    Hoàn Kiếm

    2

     

    3

     

     

     

    5

    8

    Tây Hồ

    1

     

     

     

     

     

    1

    9

    Thanh Trì

    1

    3

    2

     

     

    1

    7

    10

    Thanh Xuân

     

     

    1

     

    2

     

    3

    11

    Từ Liêm

    4

    2

    5

     

     

    1

    12

    12

    Sóc Sơn

     

     

     

     

    1

     

    1

     

    Cộng

    9

    10

    14

     

    4

    2

    39

     

    Tài liệu tham khảo:

    1. Cao xuân Dục, Quốc triều Đăng khoa lục, bản dịch của Lê Mạnh Liêu, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1962.

    2. Cao xuân Dục, Quốc triều Hương khoa lục, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1993.

    3. Dương Thị The - Phạm Thị Hoa, Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX thuộc các tỉnh từ Nghệ An trở ra, Nxb KHXH, Hà Nội, 1981.

    4. Ngô Đức Thọ (Chủ biên )- Nguyễn Thuý Nga- Nguyễn Hữu Mùi, Các nhà Khoa bảng Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, 1993.

    5. Nguyễn Quang Thắng, Khoa cử và Giáo dục Việt Nam, Nxb VH-TT, Hà Nội, 1993.

    6. Nội Các triều Nguyễn, Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, bản dịch của Viện Sử học, Nxb Thuận Hoá, Huế, 1993.

    7. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam Nhất Thống Chí, Nxb KHXH, Hà Nội, 1969-1971.

    8. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực Lục, Nxb KHXH, Hà Nội, 1962-1978.

    TS. Hà Mạnh Khoa

    Theo: Đề tài  KX.09.08

    Nguồn: http://www.thanglonghanoi.gov.vn/channel/148/2009/10/3536/

    Tìm kiếm

    Lượt truy cập

    • Tổng truy cập57,847,257

    Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

       

      Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

      *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

    Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

      WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

      Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

      The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

      Enjoy life, enjoy Arita experience!