Search

Access times

  • Total visits57,915,901

PARTNER

    Green Leaf Vietnam Trading Service Co., Ltd.

    Is the leading passenger transport service company in Vietnam! In 2019, Green Leaf VN has more than 500 passenger cars from 4 seats to 50 seats, new life, reaching 150 thousand arrivals. The rate of successful and punctual pickup is 99.97%.

    * Japanese customer care staff always create peace of mind and trust for customers ...

Novel

Ái tình họa lang

Trương Kháng Kháng

  • Sunday, 22:14 Day 20/09/2009
  • Ái tình họa lang

    Chương 1

    Chu Do đeo hộp giá vẽ, bước thơ thẩn, không biết đi đâu trong thành Tô Châu.

    Toàn thân anh uể oải, nét mặt buồn rười rượi, không một chút hứng thú. Chiếc áo gió dài rộng thùng thình, ngay đến khuy cũng không cài, cứ để bay tuỳ ý trên vai, thổi dính sát vào đùi.

    Từ mùa thu năm ngoái, sau khi bán tác phẩm vẽ thể hình đắc ý, anh luôn luôn hối hận. Khoản tiền bảy ngàn đô la cũng không thể bù đắp khoảng trống trong lòng. Trong nhà tranh có tên tuổi ở Lốt an dơ lét nước Mỹ, có thể nói bức tranh thân hình đàn bà  ấy là tác phẩm tham gia triển lãm hấp dẫn nhất của cả một mùa thu, quả tình khiến các bạn Mỹ say mê. Thẩm tiểu thư,  người mẫu  trong tranh, đã từng là một trong số đông bạn gái của Chu Do phối hợp với anh ăn ý nhất, đồng thời cũng là một người nổi bật nhất. Bây giờ cô ấy đã lấy một nhà buôn giầu sụ gốc Hoa trẻ tuổi về sau vượt biển lần theo dấu vết tìm đến.

    Chu Do cứ hối hận mãi mình không nên giới thiệu Thẩm tiểu thư gặp mặt nhà buôn ấy tại Bắc Kinh. Hình như không chỉ bán tác phẩm và tình cảm của mình, mà anh còn bán cả bạn gái. Bởi vì từ đó, hoạ đàn Bắc Kinh lại thiếu đi một người mẫu đáng yêu, nên trong suốt một mùa đông, các bạn vẽ đã chửi rủa Chu Do thậm tệ .

    Khi gió xuân thổi về, dù thế nào đi nữa, Chu Do đã không thể tiếp tục sống tại Bắc Kinh.

    Anh cảm thấy hình như mình lo sợ đã  bỏ chạy khỏi Kinh thành.

    Thẩm tiểu thư bây giờ thật là một công chúa kiêu ngạo. Từ tấm ảnh chụp kỷ niệm cả gia đình trước một toà biệt thự Hoa Viên bên bờ biển cô gửi về, quả  thật Chu Do cảm thấy cô hạnh phúc tự đáy lòng và  ở vào vị trí trung tâm mọi người hâm mộ, y như nhiều ngôi sao làm nền cho mặt trăng. Trong thư cô viết, tuần trăng mật của cô sống trong ba nhà nước xinh đẹp. Riêng lễ cưới đã tiêu hết hai mươi vạn đô la. Cả gia đình đều cảm ơn ông mối hoạ sĩ Chu Do. Bức tranh vẽ thân thể cô đã trở thành của quý số một trong số tranh cất giữ thế hệ thứ ba của  dòng họ. Vì thế Thẩm tiểu thư cảm thấy bức tranh của Chu Do bán quá rẻ. Cô định gửi cho anh ba ngàn đô la nữa để đền bù. Chu Do nhăn nhó. Anh nghĩ có lẽ đây là khoản tiền làm mối Thẩm tiểu thư  trả cho anh. Tranh thân hình đàn bà lại còn có tác dụng làm ông tơ bà nguyệt trong hôn nhân. Anh chưa bao giờ nghĩ đến điều này. Anh nhận ra mình vô tình đã góp phần thúc đẩy dòng thác tài nguyên mỹ thuật quốc gia Trung Quốc chảy ra nước ngoài. Bực tới mức anh đã tát một cái đánh bốp vào mặt anh chàng hoạ sĩ trẻ tuổi đẹp trai đang soi trong gương.

    Anh càng cảm thấy mất mát hơn, dường như cùng một lúc, một bạn gái xinh đẹp khác của anh , tiểu thư Thư Lệ cũng bỏ anh đi xa, đi mưu cầu sự phát triển ở những nơi như Thâm Quyến, Hải Nam. Cô ra đi rất kiên quyết, có lẽ anh nên sớm nghĩ đến có một ngày như thế. Không người đàn ông nào có thể thuần phục nổi cô gaí như Thư Lệ cầm tù trong phòng tranh. Cô vốn không thuộc về phòng tranh, mà thuộc về tất cả những đô thị phồn hoa. Phải thừa nhận, Thư Lệ là người tình đầu tiên của Chu Do, cũng là một người chung sống lâu nhất trong số những người tình lúc đứt lúc nối của Chu Do nhiều năm qua. Cô thông minh xinh đẹp, khá khêu gợi ham muốn tình dục. Cho đến tận bây giờ, Chu Do vẫn khó quên những cảm giác mê loạn sung sướng của mối tình đầu với Thư Lệ cùng những ấn tượng thân thể và cảm giác nghệ thuật có thể bó thành từng bó. Trước khi cô đi, Chu Do đã từng ngỏ ý  muốn vẽ cho cô một bức tranh thân thể tử tế làm kỷ niệm. Nhưng Thư Lệ đã từ chối. Cô không thích ngồi trong phòng tranh, ngoan ngoãn làm người mẫu cho anh vẽ vài tuần lễ. Đối với cô, thời gian có nghĩa là một khoản tiền lớn. Dường như cô không thể chờ đợi dù chỉ là một ngày. Cô vội vội vàng vàng, thanh minh với Chu Do một cách qua quýt cho xong, cô vẫn yêu anh, khi nào kiếm đủ tiền trở về, cô sẽ  mua nhà sắm xe, xây hẳn một phòng tranh to rộng và lấy anh. Khi ấy anh muốn vẽ cô bao lâu thì vẽ, muốn vẽ cô bao nhiêu thì vẽ. Thế nào cũng có ngày cô làm người vợ ngoan của anh.

    Chu Do không còn muốn tin vào Thư Lệ. Hôm ấy anh đã  bực dọc, gắt với cô một tiếng cút xéo.

    Sau khi đi, quả nhiên Thư Lệ bận đến nỗi không có một bức thư. Một người đàn bà như Thư Lệ, đương nhiên thừa hiểu phát huy chỗ mạnh né tránh chỗ yếu. Chu Do đã từng xem chữ Thư Lệ viết, so sánh dáng người và nét chữ cô viết  đúng là một  thứ  châm biếm cực lớn. Không viết  thư cũng được, mấy tuần đầu, Thư Lệ còn thỉnh thoảng gọi điện cho anh, kể những truyện  điên cuồng mà thú vị ở phía nam, trái hẳn cảm giác ngồi trong phòng tranh với Chu Do. Về sau điện thoại vắng dần, Thư Lệ mất hút trong dòng thác trong biển trong sóng, không để lại một dấu vết. Thi thoảng có lần nghe bạn bè kể lại, Thư Lệ gặp cơ may, làm ăn suôn sẻ,  hiện đã kiếm được rất nhiều tiền, có những mấy vòng rặt những cỡ giầu sụ bốn phương xúm xít bên thân, chàng nào cũng muốn xông vào thử. ở đó Thư Lệ tung tăng như cá gặp nước, sống rất thoải mái dễ chịu.

    Thư Lệ đã mải vui quên  lối cũ. Cô nghĩ chắc không bao giờ trở về, Chu Do tất sẽ tìm cách quên hẳn cô. Có lẽ đây cũng là nguyên nhân quan trọng Chu Do đi khỏi Kinh đô.

    Đi giữa thành phố nhỏ Giang nam  hết sức xa lạ trong thời tiết tháng tư râm lạnh, Chu Do nghĩ đến một lô một lốc những chuyện bát nháo về đàn bà, ngay đến mình cũng cảm thấy khó hiểu. Không biết tại sao anh lại như ma xui quỉ khiến đi

    mua một vé tầu hoả đến Tô Châu.

    Cảm giác mà Tô Châu đem đến cho anh, hình như còn tệ hại hơn so với Bắc Kinh.

    Chu Do khoác máy ảnh Ni Khang FM2 dạo chơi hai ngày trên đường phố Tô Châu, như một người khách nhàn rỗi, đi xem rừng Sư tử, núi Thiên Bình, núi Hổ Khâu, vườn Chuyết Chính, Lưu viên và  Di viên, còn đáp một chiếc xe đi xem chùa Hàn Sơn ở thị trấn Phong Kiều ngoài thành Cô Tô. Đang thời tiết xuân, giữa  mùa du lịch, khách đi như mắc cửi, cười nói râm ran. Trước phong cảnh vườn rừng  tinh tế nhã nhặn, Chu Do tỏ ra tê cứng, chỉ nhìn thoáng qua. ánh mắt anh nôn nóng mà tham lam, vượt qua những lối cong hun hút và những vòm cổng hình bán nguyệt trong vườn, tìm các cô gái giữa đám đông có lẽ vào được tranh.

    Những cô gái tươi tắn mà duyên dáng cứ lướt qua trước mặt Chu Do, như  bầy cá vàng nhiều màu sắc rực rỡ  bơi qua bơi lại trong bể cá.

    Nhưng Chu Do luôn luôn thẫn thờ, mắt lim dim. Hai ngày qua ngay đến hộp tranh  sơn dầu, anh cũng không buồn mở lần nào.

    Mấy năm nay, Chu Do phát hiện hầu như đã không nhìn thấy những cô gái khiến mắt anh sáng bừng lên trong sa lon nghệ thuật của Bắc Kinh. Thậm chí anh đành phải ra phố lớn để tìm. Nhưng phố lớn càng không có, đột nhiên ở những nhà gác cao sừng sững chen chúc mà lạnh lẽo, vẫn còn có những chàng trai cô gái khiến anh không quan tâm lắm. Xét đến cùng tại sao lại thế nhỉ, phải chăng những cô gái xinh đẹp đều đã trở thành gái tiếp khách ngày ngủ đêm thức, hoặc một khi đã chui đầu vào lồng tơ vàng, là từ đó không bao giờ đậu trên cành cây nữa?

    Nghĩ đến những bạn gái đã từng để lại cho anh các bức tranh thân hình xinh đẹp, ngồi trong xe con của những thằng cha sẵn tiền, lưu luyến vẫy tay chào anh, ra vẻ sống chết xa nhau, trong lòng Chu Do bị hất lên một thứ màu đen như mực vẽ che phủ và châm biếm. Anh nghĩ có lẽ đó mới là  những lời ngợi ca tính mạng chân thực của xã hội hiên nay.

    Trước khi đi khỏi Bắc Kinh, một cảm giác buồn thương và đau khổ luôn luôn tấn công anh, nhấn chìm anh.

    Trong mấy năm sau khi tốt nghiệp nghiên cứu sinh của Học viện mỹ thuật Trung ương, Chu Do luôn luôn thưởng thức tranh thân hình của các trường phái và các phong cách. Khi mới ra khỏi lều tranh, anh hết sức để ý  những đánh giá về anh của  các chuyên gia giới mỹ thuật. Anh biết phần đông các giáo sư của Học viện mỹ thuật đều nhận xét anh là một trong những hoạ sĩ trẻ có triển vọng nhất của Trung Quốc. Tranh sơn dầu thân hình của anh từ lâu đã thoát ra khỏi căn bệnh kinh niên trì trệ cứng nhắc của phái học viện. Hình như từ khi anh bắt đầu xuất hiện trên hoạ đàn, tác phẩm tranh thân hình của Chu Do đã có sự hài hoà của cái đẹp vận động, có mấy tác phẩm rất giầu cái hồn của đàn bà hiện đại phương Đông. Một số hoạ sĩ và giáo sư càng thêm tán thưởng bởi vì Chu Do coi cái đẹp của thân thể con người là linh hồn trong linh hồn vạn vật để quỳ lễ, động thái của thân thể con người sống động tươi mới tự do, đường nét của thân thể con người thanh thoát thông thoáng, màu sắc càng là sự lý giải và ca ngợi của anh được rót vào đường gân thớ thịt, nhân tính và sự trẻ trung. Kỹ xảo và ngôn ngữ hội hoạ của anh đều biểu hiện một cách nóng bỏng giá trị của mạng sống con người và tự do tinh thần nội tại được trở lại của loài người sau khi thoát khỏi ngục tù quần áo của thế giới văn minh.

    Nhưng một số nhà phê bình nghệ thuật trào lưu mới không cho là thế. Họ đánh giá chủ nghĩa nhân văn tuyệt đối  khái quát không nổi nội hàm nghệ thuật của Chu Do. Trong tranh của anh còn có  nhiều ý hướng quái đản phức tạp, là sự pha trộn giữa quan niệm và cảm giác, giữa thị giác và mộng ảo, giữa trìu tượng và cụ thể của hoạ sĩ. Phong cách vẽ tranh của anh gây nên nhiều nghị luận trên hoạ đàn. Người ta rất khó quy anh vào trường phái nào. Không ai biết Chu Do rút cuộc đang theo đuổi cái gì. Về sau có nhà  phê bình quyết đoán, ý tưởng Chu Do theo đuổi có thể là biến hoá và sáng tạo, nói như Chu Do, thì anh hoàn toàn không chạy theo phong cách, mà là  theo đuổi “cách phong” -  là một tư tưởng tình cảm vô hình    dạng hao tán luôn luôn biến hoá mà tản mát bay đi. Chàng hoạ sĩ trẻ hai mươi chín tuổi, ngoài tài hoa nghệ thuật và cá tính  được giới mỹ thuật thừa nhận, sử dụng màu sắc trên vải vẽ  tạo nên hiệu quả đặc biệt kỳ lạ, luôn luôn làm cho hoạ đàn khó nắm bắt.

    Chu Do đột ngột đi xuống phía nam  chắc chắn để lại cho các bạn vẽ ở Bắc kinh những chuyện giật gân.

    Thật ra  lâu nay Chu Do chẳng mấy hào hứng đối với phong cách vẽ và trường phái vẽ. Nhiều năm trước đây anh đã từng thành kính nghiên cứu trăn trở mục đích chính  và ý nghĩa chính của các trường phái hiện đại và hậu hiện đại. Nhưng nhiệt tình của anh đã nguội đi rất nhanh. Trong phạm vi thế giới, trường phái  tranh trìu tượng phát triển đã một trăm năm nay, giống như  đã trải qua thời đại thiếu niên thịnh vượng, từ thanh niên mà già đi, từ khoẻ mạnh đến suy yếu, bây giờ ngay đến thương hiệu, lô gô, biển quảng cáo, chất vải phục trang  cũng trở nên trìu tượng đến nỗi không phân biệt nổi xanh đỏ  đen trắng. Trìu tượng do thiếu đổi mới mà ngôn ngữ nghèo nàn, tầm thường dung tục, nói khắt khe một chút, bày ra hiệu bán giảm giá, cũng vẫn ế không ai mua. Chu Do kính nể từ đáy lòng đối với một vị ˝thầy” từ lâu đã từng có tác dụng lật đổ giầu tính cách mạng, mở ra một không gian sinh tồn mới cho nghệ thuật. Nhưng đối với cảnh xế chiều lạnh lẽo sắp sửa “ ra đi” của nó hiện nay, tuy ái mộ mà không giúp gì được.

    Trong thời đại hàng hoá và đóng gói này, suy cho cùng cái gì sẽ làm chúa tể nghệ thuật?

    Thành Tô Châu mảnh mai lung linh ngày xưa, bây giờ ở đại lộ trung tâm đã sừng sững mọc lên một loạt toà nhà lớn hiện đại tường lát giấy kính bóng loáng, hoặc gạch men hoa, màu sắc rực rỡ, những biển quảng cáo sặc sỡ chẳng khác gì những núi giả đá lạ trong vườn rừng, đan xen có trật tự. Cầu nhỏ và nhà cổ của thành cũ đang dỡ bỏ. Bụi đất màu xám xịt bay mù mịt, y như mực té ra loang lổ, không khống chế nổi, tản mát dần đi. Thành Tô Châu tỏ ra thờ ơ lãnh đạm không liên quan gì đến Chu Do, không thèm biết đến câu hỏi của anh.

    ánh nắng kẹt xỉ, bầu trời âm u, vẫn tỏ ra lành lạnh. Mấy cô gái ăn mặc hết sức mong manh lướt qua mắt Chu Do, váy quá ngắn, áo lại quá chùng, lộ rõ cặp giò gần như để trần trong tất dài màu da thịt và bộ ngực xăm hoa như ẩn như hiện dưới cổ áo để hở, giống như những bạn gái của Chu Do ở Kinh thành, khắp người chỗ nào cũng toả  ra mùi quyến rũ tình dục, cực kỳ máu mê. Nhưng đáng tiếc thân thể xinh đẹp của họ vẫn không lọt ánh mắt thẩm mỹ của Chu Do được “hun đúc”từ những bậc thầy nghệ thuật hình thể như  Tiziane Veccllio ( Yta lia, 1490 – 1576), An ghen ba le ki (Bun ga ri- 1910, Pierre  Auguste Renoir (Pháp, 1841 – 1919) và Pranco Modigliani( !918….ND). Chu Do lắc đầu thất vọng. Anh rất muốn bỏ hộp vẽ chưa vẽ lần nào khỏi vai, quẳng  béng xuống con ngòi sắp sửa mất tích cùng với những người đẹp.

    Tối hôm ấy, Chu Do đi vào một nhà hát và quán rượu KTV, tiếc rằng, kinh đô của Ngô Việt réo rắt tiếng đàn tì bà cùng với ca kịch vừa bình vừa hát ngày xưa, bây giờ dây tơ đã đứt, lời hát mềm mại uyển chuyển cũng mất tăm. Bước nào nhà hát, ca nhạc thịnh hành oang oang inh tai lộng óc. ánh đèn mờ ảo, trình tự cách điệu, trang trí gần như giống nhau y hệt.“ Non sông cả nước một sắc hồng”ư? Chu Do có vẻ lẩn thẩn, không rõ lúc này rút cuộc  mình đang ở thành phố nào.

    Nhác nhìn qua, các cô gái phục vụ cô nào cũng xinh đẹp, tiếng nói ỏn ẻn điệu đà, giống  như  bánh nếp ngày tết ở cửa hàng ăn sáng trên phố. Nếu đến gần hơn, lại nhìn không ra cái đẹp  nguyên bản vốn có của họ. Cô nào cũng bị tiêu chuẩn hoá trang làm đẹp thông dụng cả nước bôi trát đến nỗi ngàn người một khuôn mặt, giống nhau y hệt. Chu Do nhếch mép, nghĩ bụng, nếu dùng thứ gái này làm mốt, dường như  phải đổi thuốc vẽ thành son phấn và sơn móng tay, bút vẽ cũng đâm thừa, chỉ dùng bút kẻ lông mày và bút kẻ đường môi cũng đủ.

    Chu Do đứng một lát liền quay đi. Thi thoảng có một ả liếc nhìn anh. ánh mắt ấy cũng có nội dung nước đôi phức tạp . Thật ra Chu Do thừa hiểu  thứ  ánh mắt ấy. Rất nhiều cô gái xinh đẹp đều ngắm Chu Do bằng ánh mắt đó. Chu Do đã từng xuýt nữa bị chết chìm trong ánh mắt ngọt ngào mà trống rỗng ấy.

    Chu Do biết mình có dáng cao to, khuôn mặt sáng sủa và khí chất lãng mạn của nghệ sĩ thiên tính, luôn luôn rất hấp dẫn các cô gái. Nếu anh muốn tia cô nào thông thường tối thiểu cũng trúng vòng chín trở lên. Anh tự tin tuyệt đối vào điểm này. Thật ra anh đâu có thiếu bạn gái. Lên giường hay không lên giường đều không có quan hệ dây mơ rễ má với những chuyện đời thường có tiền hay không  có tiền. Anh thiếu là thiếu người mẫu, những người mẫu thật sự ưu tú, những mô đen có khuôn mặt và thân hình sống động, có ngôn ngữ thể hình phong phú và sinh động vô hạn. Hoặc ngồi hoặc đứng, hoặc nằm ngửa, hoặc nằm sấp , bao giờ tư thế của họ cũng có nội hàm cực phong phú, ý tưởng mới bất tận. Mấy năm trước, khi tranh vẽ hình thể con người của Chu Do đi dần vào cõi đẹp, có lẽ một nửa thành công của anh phải thuộc về mấy người mẫu  ngày nào cũng  luôn luôn chịu khó  ngồi  ngay ngắn yên lặng trước giá vẽ của anh.

    Nhưng gần nửa năm nay, Chu Do không có tác phẩm  hay nào gây chấn động, đáng để khoe tay nghề với bạn vẽ. Anh đã mất đi người mẫu đẹp như cô Thẩm, cũng đồng thời mất đi niềm say mê vẽ tranh hình thể. Cuộc triển lãm lớn toàn quốc tranh nghệ thuật thể hình ở Thượng Hải bị ghẻ lạnh, đã báo trước nguy cơ tiềm ẩn của nghệ thuật tranh thể hình Trung Quốc. Ngay đến hoạ sĩ trẻ , ngôi sao mới mọc trên bầu trời  như  Chu Do, cũng không tìm thấy thể chuyển tải đẹp, xem ra các hoạ sĩ đành phải đi vẽ những cô mốt bình bình khô khan rẻ tiền.  Nhưng Chu Do thà để trắng vải vẽ, chứ không để phí phạm thuốc vẽ của mình.

    Thực ra, sau khi Thẩm tiểu thư ra đi, Chu Do cũng đã từng nhìn thấy hai người đẹp rất hợp khẩu vị của mình trong các khách sạn cỡ ngôi sao ở Bắc Kinh,  duyên dáng kín đáo, khí chất cao nhã. Đáng tiếc, bên thân tiểu thư đã  có đàn ông mũ áo chỉnh tề làm bạn, nhác nhìn đã biết ngay là cỡ sẵn tiền, “bao” chặt tiểu thư, bao đến mức không có một khe hở. Chu Do đành phải dừng bước, cảm thấy cái đẹp của họ như có như không xa vời. Không cần  nói  đến chuyện làm người mẫu, mà  ngay đến định mời họ đến phòng tranh của anh làm mẫu chân dung mấy tiếng đồng hồ, cũng không nói nổi. Người ta sẽ coi anh là lưu manh hoặc thằng điên. Có lẽ họ thiếu tu dưỡng văn hoá, thiếu cảm giác nghệ thuật. Nhưng  nói tóm lại không thiếu phần tiền lương quá ư ít ỏi bèo bọt kiếm được khi làm mẫu. Làm mẫu hình thể tuy là một nghề cao thượng, nhưng chi phí mỗi tiếng đồng hồ chỉ khoảng  mười lăm hai mươi đồng, kém hàng chục lần, thậm chí mấy chục lần  so với chi phí phục vụ của “gà” trong khách sạn lớn. Các bạn vẽ nói vui, tự nhiên là “gà bay lên chỗ cao, tranh trôi xuống chỗ thấp”. Những năm chín mươi khó tìm người mẫu, không phải vấn đề mở cửa hay không mở cửa, mà là vẫn đề hiệu quả hay không hiệu quả.. Nền kinh tế thị trường đã phá vỡ truyền thống phong kiến năm ngàn năm từ lâu, bây giờ đến lúc các hoạ sĩ lúng túng khó xử .

    Chu Do cũng đã từng vừa đánh lừa vừa che dấu một cô gái đến tuyển còn có vẻ trong sạch thuần khiết đến phòng tranh của anh, dọc đường cô gái rất vui vẻ tí tởn,  nhưng vừa bước vào phòng tranh của anh, bỗng trở nên lo lắng, trước giá vẽ của anh, ánh mắt cô cứ đưa đẩy nghi hoặc, ngay đến tiêu cự cũng không dịch gần lại. Cô gái cứ khăng khăng đòi trả theo chi phí nội dung phục vụ thông thường của mình,  cò kè  bớt một thêm hai với anh một cách bất khuất, bực đến nỗi Chu Do đành phải ấm ức để cô đi. Sau khi cô đi, Chu Do tức giận vô cùng, hằm hằm  bóp cả một tuýp  thuốc màu lên giấy vẽ, hôm sau phải tốn bao công sức mới cạo đi được. Những thứ gà quay, gà rán, gà ken túc ki chế biến bằng một thứ gia vị thống nhất đầy đường phố, liệu có sánh nổi cái thần của đàn bà phương Đông trong mộng ảo của anh? Chẳng thà dùng những thuốc vẽ đỏ đỏ vàng vàng, vẽ một bức  tranh phong cảnh “bãi đỗ gà”, hoặc “trại nuôi gà” cho xong.

    Chu Do uất ức cảm thấy bất lực cho hoạ sĩ của những năm chín mươi. Có lẽ anh không được coi là người vô sản. Anh có một số tiền bán tranh. Nhưng đứng trước đàn bà xinh đẹp, chút tiền này hoàn toàn mất đi khả năng cạnh tranh với những nhà buôn lớn. Có lúc anh bình tĩnh suy nghĩ, cảm thấy, có lẽ đàn bà cũng bất lực như anh. Thời thanh xuân cuả đàn bà ngắn quá. Họ không thể giữ mãi vẻ đẹp, đương nhiên đã làm cho tầm nhìn và hành vi của chị em không thể không nông cạn. Các cô gái xinh đẹp của Trung Quốc hiện nay đang xếp hàng cởi quần áo phục vụ kẻ giầu sang , giống như người ta xếp hàng đi tắm trong  thời đại  thiếu niên của anh, chứ không chịu bày tỏ vẻ đẹp của thân hình cho các nghệ sĩ. Có lẽ chờ đến khi xuất hiện hàng loạt tỉ phú, tỉ tỉ phú trong hoạ sĩ, thì không cần phải mời, các người mẫu ưu tú mới tự đưa hàng đến tận nhà?

    Lại một lần nữa, Chu Do thất bại ở Tô Châu. Thật ra cũng nằm trong dự kiến của anh. Nhưng anh vẫn không muốn uổng công đến Giang Nam. Anh tìm đến mấy bạn vẽ ở địa phương, đã gặp mấy cô người mẫu họ giới thiệu, cảm thấy vẫn kém hơn nhiều gái Bắc Kinh. Con gái Tô Châu tuy nước da mịn màng, thân hình mềm mại, chỉ tiếc đùi cô nào cũng không đủ thon dài. Mặt mũi sáng sủa, nhưng mắt thiếu tinh thần, quá thướt tha yếu ớt, thường khiến người ta  cảm thấy cái thói   ngọc biếc con nhà nghèo. Anh nhớ có người  từng bảo mình, trước đây Đoàn múa Ba lê và Trường múa chiêu sinh, nam sinh chủ yếu chọn từ Trường Xuân, Đại Liên,  nguồn nữ sinh chủ yếu ở vùng Thái Hồ. Trong lịch sử, Tô Châu là nơi sinh người đẹp chủ yếu của Trung Quốc, tiếng vang ra ngoài. Cho nên vừa bước sang đầu những năm tám mươi, các nhà buôn ở Hồng Công, Đài Loan, Ma Cao, cộng thêm gốc Hoa ngoại tịch và cả những hộ giầu lên nhanh chóng trong nước, tới tấp đến đây chọn đẹp đãi vàng, lưới dầy đánh bắt, đào sâu ba thước, chỉ cần có một người đẹp lấy chồng bên  ngoài, tổ chức long trọng, là kéo đến một bầy cá người đẹp,  chủ động cắn câu chui vào lưới. Cho dù là một mỏ quặng béo ngàn năm,  qua mấy chục năm liên tục bắn phá  bừa bãi như vậy, e rằng từ lâu chỉ còn lại toàn hố bom là hố bom, rất hư danh. Bây giờ kim cương màu sáu ca ra trở lên đã tuyệt tích từ lâu, ngay đến kim cương màu ca ra nhỏ cũng khó tìm. Do đó suy đoán số mệnh của mấy thành  phố nổi tiếng, có lẽ không khác nhau mấy. Thế là Chu Do bãi bỏ  kế hoạch  ngồi thuyền đi Hàng Châu, chuẩn bị hôm sau mua vé tầu hoả về Bắc Kinh.

    Đang là  thời gian cao điểm chơi xuân, nửa đêm đã có người vác ghế đẩu xếp hàng ở chỗ bán vé. Chu Do đành phải nhờ bạn nghĩ cách. Trong mấy ngày mắc cạn cuối cùng ở Tô Châu, xem ra anh đành phải vẽ phong cảnh thật trong phố nước thành Tô Châu.

    Vào buổi sáng ngày thứ tư Chu Do còn ở lại Tô Châu, bắt đầu từ sáng sớm, bầu trời đã lất phất hơi mù, như có vẻ sắp mưa. Anh  dạo bước trên phố nhỏ bị hơi ẩm ngày xuân Giang Nam thấm ướt, đi qua mấy  chiếc cầu đá bám rêu xanh và dây leo trường xuân cuốn níu, cuối cùng dừng chân trước quán trà bên  con sông nhỏ.

    Con sông nhỏ hẹp mà trong veo, êm đềm từ từ chảy, giống như một dải đũi Tô Châu cổ kính. Nước sông được dệt thành tơ bạc lụa ngọc đông đặc, khe khẽ lay động dưới cầu. Mưa khói lờ mờ trôi nhẹ trên mặt sông, lại lặng lẽ mù mịt, giống như  tiếng thở dài của đàn bà đọng mãi không tan trong hơi mù….

    Và thế là cứ mờ mờ ảo ảo hiện dần lên trên mặt sông  mờ mịt khói sương  những thân thể xa vời vợi mà mê hồn của Tô Tiểu Tiểu, Lý Hương Quân, Đổng Tiểu Uyển và Liễu Như. Các nàng cứ nhè nhẹ bay đến, lại bồng bềnh lướt đi, hò hẹn với  anh hết lần này đến lần khác trong giấc mộng  giữa ban ngày của Chu Do. Các nàng khi là những nữ thần xinh đẹp, lúc lại là những con mụ dâm đãng. Các nàng ngâm thơ gẩy đàn, viết chữ vẽ tranh, thổi sáo kéo nhị, không loại gì là không tinh thông. Nếu họ yêu bạn, sẽ giành cho bạn cả tình cảm, nghệ thuật và tình dục. Nếu không yêu, chỉ hiến dâng ca múa, giữ  lại tình yêu. Có lẽ đây là những đàn bà tự do nhất, cởi mở nhất và cũng đẹp đẽ nhất trong lịch sử Trung Quốc. Chu Do bị dày vò bởi những ảo giác và tưởng tượng của mình. Anh cảm thấy những kỹ nữ Giang Nam  thuở xưa đúng là đáng tôn kính hơn đàn bà hiện đại. Những đàn bà tự coi là cởi mở hiện nay, tham lam nhưng lại nghèo túng, giải phóng phụ nữ nếu chỉ có nghĩa là dùng thân thể đi đổi lấy vật chất, thì thật là kém xa lối sống càng hiện đại càng phóng khoáng của các kỹ nữ  trong thuyền hoa lầu xanh ngày xưa. Người đẹp nếu không có tài có tình, đi vào tranh không những không có hồn tranh, mà ngay đến mặt tranh cũng nhăn nheo.

    Đáng tiếc Chu Do không thể vẽ tranh cho các kỹ nữ có danh tiếng ở Giang Nam xinh đẹp, nghĩa hiệp và rắn rỏi khí khái. Vẻ đẹp thân thể của họ đã hương tàn ngọc rơi, không bao giờ tái hiện. Hy Lạp hơn hai ngàn năm trước đã tạc cho đời sau tượng thần vệ nữ Ve Nus không gì so sánh nổi. Mấy trăm năm qua, các hoạ sĩ và nhà tạc tượng châu âu đã sáng tạo nên những kiệt tác thể hình có thể phủ kín vô số nhà bảo tàng nghệ thuật. Còn Trung Quốc cổ xưa, ngoài tượng cung nữ và tranh khiêu dâm, ngay bóng dáng một bức tranh thân người có nghệ thuật chân chính, cũng không để lại. Đây rút cuộc là văn minh hay mông muội? Rút cuộc là xuất phát từ cao thượng hay bắt nguồn từ thấp hèn? Chu Do đau khổ nêu câu hỏi, không có hồi âm, cũng không có đáp án. Trong mấy cuộc tranh luận của giới hoạ sĩ, Chu Do chỉ có thể kiên trì cho rằng, đàn bà bị Nho học gạn lọc và kìm hãm lâu quá, do thiếu zen di truyền văn minh đẹp và văn hoá đẹp đến từ nguồn sinh mệnh, một khi phá  bỏ vùng cấm, nhìn thấy nghệ thuật hình thể, thì zen bản năng tình dục đã bị kích động lên đầu tiên. Tình dục lan tràn  quay sang  cưỡng hiếp văn minh hiện đại. Nền văn minh chưa từng được thử thách và hun đúc nghệ thuật hình thể, thực chất là nền văn minh yếu đuối và giả dối. Nếu mấy ngàn năm nay dân tộc Hoa Hạ cũng  có nghệ thuật hình thể rực rỡ của mình, thì trong quá trình tiếp thu sự truyền bá và thẩm thấu của văn minh phương Tây sẽ không đến nỗi nhu nhược và không chịu nổi một đòn như vậy. Chu Do rất muốn cùng nhiều bạn vẽ bù đắp  lại chỗ thiếu sót đáng tiếc của nghệ thuật hình thể mấy ngàn năm.Khi người Trung Quốc có thể  thưởng thức những tác phẩm nghệ thuật tranh sơn dầu hình thể treo trên tường phòng khách nhà mình một cách thản nhiên mà trong sáng thuần phác, có lẽ dân tộc này mới có thể thật sự đứng trước tự do và giải phóng tinh thần.

    Chu Do tìm được một bệ đá dưới cầu, đặt hộp vẽ tranh sơn dầu to rộng dầy nặng của mình, rồi ngồi xuống bờ sông nhỏ xây kè đá.

     

    Chương 2

    Trong không khí chứa đầy hơi nước. ánh sáng mỏng manh bị mây mù che lấp. Cảnh sắc hai bờ phố nước trước mắt vẫn như ngâm trong nước. Nóc nhà  mái cong màu đen ướt rượt, tường vôi ẩm thấp, cầu đá bến đá xanh xám ướt át… Cảnh vật trong tầm nhìn đã hút no nước. Chỉ có hơi mù chung quanh vẫn  bay đi trôi lại tìm chốn đi về và khe hở nương thân. Hơi nước say mèm cứ  chếnh choáng bồng bềnh, phố nước trước mắt Chu Do cũng bồng bềnh lay động. Từng mảng màu phảng phất như đều bị mù nước hoà tan – Ngói đen chảy lên tường trắng. Tường trắng chảy ra phố xám. Cầu xanh  chảy vào mố cầu. Thuyền gỗ màu nâu chảy vào sông xanh. Người đi đường che ô màu lam, hình như hoá thành vũng nước màu lam, chảy vào bóng màu lam trong nước.

    Mù nước trong mát đen trắng xanh lam, hết sợi này đến sợi khác cứ bay vào trong mắt Chu Do. Anh dần dần cảm thấy một sức hấp dẫn và mềm mại khó lòng miêu tả của phố nước  Giang Nam. Hơi nước nhè nhẹ, mù mưa mềm mại có thể ngấm vào hòn đá viên ngói, hòn gạch khe tường, cửa sổ gỗ chạm hoa,thậm chí trong xương  trong tuỷ đàn ông. Nó từ từ xoa xoa, nhè nhẹ nắn bóp và ăn mòn mọi vật thể cứng chắc, rồi cứ từng ly từng tý gửi chúng vào  trong lòng rộng lớn của sông ngòi hồ biển. Trước mặt Chu Do đã không nhìn thấy bất cứ cái gì có góc cạnh rõ nét. Tất cả đều mềm nhũn, không xương không sống lưng, giống như bùn Thái Hồ được nước chảy ngàn vạn năm mài nhuyễn. Cảnh đẹp của Giang Nam cũng tạo bằng nước ư? Hình như anh cảm thấy mình nắm bắt được khí trường và dáng vẻ xinh đẹp đau buồn của những người con gái nổi tiếng Giang Nam  mất đi từ đời nảo đời nào.

    Dùng thuốc vẽ nhàn nhạt ngậm no dầu điều chỉnh màu sắc, với một cảm giác tinh tế sâu sắc, Chu Do vẽ  trên vải tranh tuỳ theo cảm hứng của mình. Dưới ngòi bút của anh, cảnh sắc phố nước có vẻ chông chênh, đứng không vững, như tan mà không phải tan, như đổ mà không phải đổ. Mái hiên cảnh gần, lan can cầu cảnh xa, từng giọt nước, từng ngấn nước, như rượu như nước mắt,  hoà quyện vào nhau, lặng lẽ chảy vào dòng sông nhỏ trôi ra biển, y như từng cô gái Giang Nam mặc váy tơ lụa, như mây như mù, lâng lâng bay bổng. Cả mặt tranh như bị hơi nước thấm ướt, bao phủ trong bầu không khí thương tâm thần bí như ẩn như hiện.

    Mù mưa bỗng chốc dầy đặc. Chu Do cảm thấy từng cơn ẩm thấp và lành lạnh ập đến. Như có linh tính và cảm ứng, mù nước cuốn quýt ngấm vào cổ áo và ống tay áo anh, lặng lẽ  bao vây, phủ một lớp màng nước giữa thân thể và quần áo, dính bám lên da thịt khắp người anh. Chu Do rùng mình một cái, toàn thân run run. Giờ phút ấy, hình như anh có một ảo giác, như nghe thấy từng tiếng, từng tiếng  khóc nỉ non của đàn bà từ cõi âm  xa xăm vọng về. Nền văn minh Trung Hoa đã từng sinh ra vô số hoạ sĩ vĩ đại. Nhưng da trắng như băng như tuyết, của đàn bà Hoa Hạ lại bị vùi sâu trong đất vàng từ lâu. Cái đẹp cổ điển đã mất. Cái đẹp hiện đại đang ở đâu? Chu Do lại một lần nữa chịu sự mất mát nặng nề không hề gặt hái được gì trong cuộc tìm về cội nguồn tìm về cái đẹp, lún sâu vào cõi hư không song trùng đến từ lịch sử và hiện đại. Chưa bao giờ anh khao khát tình yêu và cái đẹp mạnh mẽ như giờ phút này. Đúng là anh bắt đầu hoài nghi bản thân, hoài nghi cả các nghệ sĩ vẽ tranh hình thể Trung Quốc, liệu có trở thành những đứa con bỏ rơi không nguồn không gốc không cha không mẹ….

    Gần trưa, sắc trời mỗi lúc một u ám, như có những sợi mưa rất mảnh rất mịn lướt qua trên trán như  có như không. Chu Do chuẩn bị  điểm thêm vài nét bút cuối cùng trên mặt tranh, rồi thu dọn giá vẽ. Anh không muốn để bức tranh bị nước mưa thấm ướt.

    Chú hoạ sĩ, chú vẽ xong chưa? Thưa chú! – Chợt có tiếng trẻ em trong veo từ sau lưng vang lên.

    Chu Do vội quay lại, thấy trên đầu có một chiếc ô nhỏ màu hồng cánh sen được một bàn tay nho nhỏ trắng trẻo đang giơ cao. Bên cạnh còn có mấy em gái nhỏ hơn, hình như vừa tan trường về nhà, chạy đến xem anh vẽ. Cặp mắt anh chợt bừng sáng.

    Hơn một năm qua, đây là lần đầu tiên cặp mắt anh bừng sáng.

    Một cô bé xinh đẹp lạ thường, trạc mười bốn mười lăm tuổi, đang đứng ở đằng sau che giá vẽ cho  anh. Cô bé cầm ô mặc bộ quần áo len mỏng phơn phớt hồng bó sát người, chân đi ủng màu đỏ thẫm.Đôi má trắng hơi ửng đỏ, y như một bông hoa tường vi màu hồng nhạt trong mưa. Một sắc màu ấm áp dịu ngọt lọt vào mắt Chu Do, cái lạnh trên người anh đã tan đi già một nửa. Không khí ấm lạnh trước mắt đột nhiên chuyển đổi, khiến Chu Do cảm thấy  hết sức vui mắt ấm lòng.

    Em  bé, em tên là gì?

    Chu Do vừa mỉm cười hỏi, vừa lấy giấy lộn khẽ lau đầu bút vẽ. Anh cảm thấy trái  tim mình đột nhiên đập gấp một cách vô cớ. Phải chăng phố nước đúng là có cảm ứng, đã đưa đến trước mặt anh một cô bé khác thường, có lẽ là thế hệ sau của người đẹp Giang Nam?

    - Cháu tên là Ngô Vân Nê, mọi người đều gọi cháu là A Nê. Chú cứ gọi cháu là A Nê.

    Cô bé nói giọng phổ thông Tô Châu, một thứ thanh điệu mềm mại ngọt ngào.

    Chữ Nê nào cơ? – Giọng Chu Do cũng  bỗng dưng trở nên dịu ngọt.

    Nê của hai chữ nê ông thưa chú….

    Nê của đèn nê ông chứ gì?

    Chu Do nói vui. Trước kia đi ra ngoài vẽ cảnh thiên nhiên, gặp  du khách vây xem, hỏi một số vấn đề quá ư nghiệp dư, anh không bao giờ muốn bắt chuyện nhiều với họ. Nhưng lần này anh lại sợ cô bé bỏ đi, rất nhanh chóng, anh quyết định tìm cách làm bạn với cô bé.

    Nê của vân nê ấy, là cầu vồng trên biển lớn, còn là cầu vồng sau cơn mưa!

    Cô bé  bỗng chớp chớp mắt, chiếc ô trong tay xoay tròn y như một bông mây.

    Cái tên đẹp quá!

    Chu Do vừa cười vừa khen. Anh thu xong bút vẽ. Cạo sạch thuốc vẽ còn thừa trên tấm pha màu. Nhưng lại không đóng hộp tranh sơn dầu, để các cô bé tiếp tục thưởng thức tranh anh vẽ.A Nê hỏi:

    Chú từ Bắc Kinh đến phải không? Chú đến đây chuyên vẽ tranh hả chú?

    Phải! Cháu đã từng gặp hoạ sĩ khác nào chưa?

    Gặp rồi chú ạ! Trước kia có giáo sư Trịnh, dẫn theo mấy sinh viên đến  đây vẽ tranh, vẽ những mấy ngày liền, ngày nào cháu cũng đến xem.

    Cháu cũng thích vẽ tranh ư?

    Thích! Cháu đã học vẽ mấy năm. Cháu còn ở trong nhóm mỹ thuật của Cung thiếu niên thưa chú.

    Chu Do bỗng hớn hở hẳn lên. Anh cảm thấy mình đã chộp được con chim nhỏ xinh đẹp hoạt bát, một con chim nhỏ ngậm bút vẽ. Nhìn dáng vẻ chăm chú xem tranh của cô bé, thật giống như một đồng nghiệp nhỏ  tuổi của mình. Chu Do hỏi:

    Cháu  có thích bức tranh này không?

    Thích! -  A Nê gật gật đầu, nói tiếp -  Ngôi nhà giống như con tôm say trong cốc, say tới mức không động đậy, thân vẫn sống…. mù hình như đang bay, nhà như ngâm trong nước. Nhưng, tranh chú vẽ lạnh quá, hình như vẫn chưa sang xuân.

    Như thế đúng  hay sai?

    Đúng! Thầy giáo bảo, em cảm thấy như thế nào có thể cứ vẽ như thế…

    Chu Do chú ý lắng nghe cảm giác xem tranh của A Nê. Anh cảm thấy A Nê có cảm nhận nghệ thuật tốt. Xem ra hôm nay anh đã gặp một cảnh vật trời sinh nên vẽ. Anh rất muốn tặng A Nê bức tranh này. Nhưng anh lại thấy tiếc. Bức tranh này anh hoàn thành trong cảm giác và hứng thú hiếm có của một năm nay. Phàm những tác phẩm gửi gắm nỗi buồn khổ trong tim của mình như thế này,  bao giờ anh cũng giữ rịt và giành nó cho mình y như một con ma kẹt xỉ.

    A Nê lại nói:

    -  Chú ơi, chú vẽ đẹp quá! Chú dạy cháu vẽ được không? Chú xem tranh cháu vẽ chú nhé?  Lần trước cháu đưa quyển tranh cho giáo sư Trịnh xem. Giáo sư tốt quá, bỏ ra một tiếng đồng hồ dạy cháu.

    Chu Do vội đáp:

    Không sao, những người vẽ tranh đều là bạn vẽ của nhau - Sau đó anh lại nhanh chóng nói thêm một câu -  Nhưng, cháu phải đáp ứng chú một điều kiện.

    Ngay từ giây lát đầu tiên gặp A Nê, Chu Do đã nẩy ra ý muốn vẽ  cô bé. ý muốn ấy mạnh mẽ vô cùng. Chu Do cảm thấy toàn thân rạo rực. Giây phút A Nê xuất hiện, nước sông trước mắt hình như đã chảy ngược, từ Thái Hồ mênh mông không bờ bến đổ ngược vào phố nước. Từ trên mặt nước A Nê chầm chậm lướt đến, giống như một món quà Nữ Thần Thái Hồ tặng Chu Do.

    Cháu biết điều kiện của chú  rồi – A Nê ngoẹo đầu  một cách tinh nghịch – Có phải chú định vẽ cháu? Lần trước cháu đã từng làm mô đen cho một hoạ sĩ, vẽ ngay bên dòng sông này.

    Sợi mưa hình như dầy thêm, Chu Do vuốt vuốt những giọt nước trên đầu, đóng hộp vẽ đứng dạy. Anh tỏ ra hơi buồn, nếu cứ mưa, sẽ vẽ tranh cho A Nê ở đâu?

    A Nê chỉ vào ngôi nhà gác hai tầng  nho nhỏ xinh xinh cách phố nước không xa, nói:

    -  Nhà cháu đấy, chú đã vẽ nó vào trong tranh. Cho nên cháu muốn mời chú vào nhà cháu. Bố mẹ cháu đều thích hoạ sĩ, dù sao chiều nay cháu cũng không đi học, đến nhà cháu, chú còn có thể xem tranh cho cháu, dạy cháu vẽ tranh, mau  mau đi chú, mưa to rồi.

    A Nê vừa nói vừa dắt tay Chu Do nhẩy tâng tâng xuống cầu.

    Chu Do khẽ nắm bàn tay nho nhỏ của A Nê. Bàn tay trắng trẻo mà mềm mại, mềm mại như không có xương ở bên trong. Theo thói quen anh nâng bàn tay nho nhỏ, cúi xuống nhìn kỹ. Khi anh khẽ nắn bụng ngón tay cái hơi trong suốt trắng nõn, mềm mại, đột nhiên cảm thấy đó rõ ràng như  là một quả nho Tân Cương không hạt mọng nước cốt. Lại nhìn khuôn mặt trắng hồng cũng như nửa trong suốt của A Nê, anh tin chắc đã nắm bắt được cảm giác A Nê giành cho mình. Anh cứ thầm nhắc đi nhắc lại cảm giác này, bỗng dưng tỏ ra xúc động.

    Chú ơi, cháu vẫn chưa kịp hỏi tên chú?

    Chu Do, Chu của hai chữ Chu vi, Do của hai tiếng tự do.

    Ôi? Chú là Chu Do? Thật sao? – A Nê  hớn hở xiết chặt tay anh – Bài thưởng thức mỹ thuật lần trước, thầy giáo Lục đã từng giới thiệu cho chúng cháu tác phẩm được giải của chú, sau đó được xem trên tạp chí mỹ thuật, mẹ cháu còn cắt ra, lồng vào một khung kính nhỏ.

    Chu Do cười sang sảng. nói:

    Vậy ra chúng ta đã quen nhau từ lâu, là bạn cũ phải không?

    Dáng chú lớn, ồ,  không phải lớn, mà là dáng chú cao, chú rất đẹp trai.

    Chu Do liền hỏi A Nê bao nhiêu tuổi, học lớp mấy. A Nê đáp mười ba tuổi rưỡi, cũng sắp sửa mười bốn, học lớp tám. Chu Do hỏi cô bé có phải cao hơn bạn gái cùng lớp. A Nê đáp, bắt đầu từ tiểu học, cháu luôn luôn ngồi hàng ghế cuối cùng.

    Chu Do lại nhìn kỹ dáng A Nê. Hình thể cô bé thon dài, phát dục cũng sớm. Nếu    bé bảo mười lăm tuổi , anh cũng tin. A Nê đang  bắt đầu ở vào mùa hoa tuổi mười bốn, chỉ vài năm nữa, cô bé xinh đẹp này sẽ được các đoàn thể ca múa, biểu diễn, quay phim vô tuyến truyền hình chọn đi. Nếu bỏ lỡ cuộc gặp bên sông hôm nay, vài năm nữa đến Tô Châu, có thể anh sẽ không bao giờ gặp cô  bé nữa. Chu Do rất muốn sau này năm nào cũng đến Tô Châu vẽ cô bé. Anh cảm thấy hình tượng người con gái anh chờ đợi sáng tạo trong tranh bấy lâu nay, chính là A Nê trước mắt.

    Đi qua một quán ăn nhỏ trong ngõ, A Nê đứng lại nói:

    Cháu đói rồi, cháu quên mất chưa ăn cơm trưa.

    A Nê vừa nhắc đến, bụng  Chu Do cũng bỗng dưng  sôi ùng ục, đói cồn cào.

    A Nê lại nói:

    -  Bố mẹ cháu đều đi làm, trong nhà không có cơm ăn. Mẹ cháu dạy ở trường đại học, mỗi tuần đến trường hai lần, buổi trưa không về nhà, bảo cháu đến ăn ở quán cơm của bác Lý, cuối tháng nào bố cháu cũng đến thanh toán. Bố cháu là bác sĩ ngoại khoa, một bác sĩ rất có tiếng tăm.

    Chu Do bảo:

    Vậy thì chú mời cháu, được không?

    Một cô gái xinh đẹp từ trong quán ra đón, mời hai người vào trong ngồi.

    A Nê nói với cô gái:

    - Chị A Tú, đây là chú của em, hoạ sĩ ở Bắc Kinh, chú tên là Chu Do.

    - Chị đâu có biết em còn có một người chú là hoạ sĩ?

    A Tú tươi cười nhìn Chu Do.

    Chu Do gật gật đầu, vui vẻ nhận mình là chú. Anh ngắm nghía cô phục vụ của nhà ăn trong ngõ nhỏ yên tĩnh vắng vẻ trước mắt, phát hiện cô A Tú này là một trong mấy cô gái xinh đẹp hiếm có mà anh đã gặp trong vài ngày đến Tô Châu. Xem ra vẻ đẹp của Tô Châu đều nấp trong các ngõ nhỏ sâu kín. Nhưng Chu Do cảm thấy A Tú vẫn quá đậm son phấn,  ăn diện cũng có vẻ loè loẹt tầm thường, nhất là hai vòng vàng sáng loáng ở tai.

    Cuối cùng vẫn là A Nê gọi món ăn, Chu Do đãi khách. Người anh ấm hẳn lên, ngực nóng ran, như uống rượu nếp cái hâm nóng, có vẻ hơi chếnh choáng. A Nê nâng cốc nước bưởi định cạn cốc với anh, anh uống một hơi đầy cốc bia to. A Nê trợn tròn mắt. Dơ mu bàn tay chùi bọt bia trên mép, đặt cốc không xuống, anh nói:

    Thấy chưa, người phương Bắc uống bia như thế đấy!

    Ôi, uống thêm một cốc nữa, thưa chú?

    A Tú bước đến hỏi. Chu Do lắc lắc đầu. Nếu không vì chiều nay còn vẽ tranh cho A Nê, Chu Do thật  muốn uống cho đã. Tửu lượng của anh vốn nổi tiếng trong số các bạn vẽ tranh sơn dầu ở Kinh thành. Lần nào vẽ xong một bức tranh đẹp, Chu Do cũng dứt khoát  mời mấy bạn thân, vừa uống vừa tán cho thư dãn hoàn toàn. Có người bảo, anh luôn luôn dùng rượu bia rửa bút, rồi lại dùng rượu bia pha màu cho bức tranh sau. Nhưng ngay đến Chu Do cũng thấy lạ, trong bất kỳ trường hợp nào, anh cũng không bao giờ quá chén.

    Anh bỗng dưng phát hiện A Nê đang chăm chắm nhìn mình. Hai tay A Nê bưng cốc, y như chưa uống hớp nào. Nước bưởi vàng óng trong cốc sóng sánh ngang cánh mũi cô bé, để lộ trên mép cốc hai con mắt long lanh, cứ chớp chớp  như ánh sáng đom đóm lập loè. Hai đuôi lông mày cong cong hơi vểnh lên, vừa tinh xảo lại mịn màng như nhung tơ, tô điểm trên vầng trán  nhẵn bóng của cô bé. Dường như Chu Do chưa bao giờ nhìn thấy cặp lông mày đẹp như thế. Anh rất muốn thò tay vuốt  nhẹ một cái.

    Ngắm nghía kỹ A Nê, Chu Do cảm thấy cô bé có vẻ đẹp mê hồn được che dấu dưới vẻ ngoài sáng láng hoạt bát của thiếu nữ, chỉ khi nào không cười mới thi thoảng bộc lộ ra. Sau khi lớn, nhất định A Nê là một người đẹp Giang Nam tuyệt vời. Nhưng lúc ấy liệu cô cũng sẽ bước theo vết bụi của những người đẹp, hoặc ra nước ngoài lấy chồng Tây, hoặc được các nhà giầu sang quyền quí “bao khoán”? Tự dưng Chu Do có cảm giác đau nhói trong tim, chỉ sợ vẻ đẹp bị khinh nhờn. Dường như anh thà ở lại Tô Châu, trông coi cô bé lớn lên, ngày ngày dạy cô bé vẽ tranh…

    Cặp mắt đen lay láy trên rìa cốc cứ chớp chớp.

    Cặp mắt xinh đẹp lúc nhắm lại, lúc đột nhiên mở to. Cô bé nghiễm nhiên quan sát Chu Do bằng ánh mắt của một hoạ sĩ.  Rõ ràng  ánh mắt ấy thể hiện niềm vui thú khác thường đối với Chu Do. Hình như cô bé không hề che dấu bản thân cảm mến Chu Do. Thậm chí, cô bé còn thưởng thức anh như một tác phẩm nghệ thuật chân dung. Chu Do cười thầm. Hình như A Nê lúc này đã trở thành một nữ hoạ sĩ thuần thục, còn anh lại trở thành một người mẫu của nữ hoạ sĩ.. Không ngờ cảm giác âm thịnh dương suy anh thường gặp  trong các bạn gái ở Bắc Kinh cũng đã bắt đầu lộ rõ sự sắc sảo trên cơ thể thiếu nữ Giang Nam. Khi nhìn nhau, A Nê cười với anh rất tươi. Chu Do bần thần cả người. Trong nụ cười ấy anh nhận được hơi thở chín sớm của  cô bé. Trên mâm cơm, A Nê mỗi lúc một hoạt bát chủ động. Cô bé gắp thức ăn cho anh. Cô  bé nói  vừa nhanh vừa gấp. Cô bé hỏi anh công tác ở đơn vị nào, tốt nghiệp ở học viện mỹ thuật nào, đã từng mấy lần được giải thưởng, đã đến cung Leluovre chưa, tại sao chưa ra nước ngoài. Chu Do dần dần cảm thấy hình như mình không phải đang nói chuyện với một thiếu nữ, mà đang đối thoại với một bạn gái cùng tuổi. Cảm giác này vừa mới mẻ vừa ngượng ngập.

    Chú ơi, nhà chú ở Bắc Kinh có điện thoại không?

    Có, nhưng đó là nhà bố mẹ chú, có việc gấp, có thể nhờ bố mẹ chú nói lại với chú. Chỗ chú không có điện thoại. Chú ở trong phòng tranh của một nhà kho lớn, giống như một con chuột cống.

    (còn tiếp)

    Nguồn: Ái tình họa lang (Ngôi nhà của những bức tranh tình yêu). Tiểu thuyết của Trương Kháng Kháng. Vũ Công Hoan dịch. Nhà xuất  bản Văn học sắp xuất bản.

    www.trieuxuan.info

     

     

    Table of contents: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31

    Search

    Access times

    • Total visits57,915,902

    PARTNER

      Green Leaf Vietnam Trading Service Co., Ltd.

      Is the leading passenger transport service company in Vietnam! In 2019, Green Leaf VN has more than 500 passenger cars from 4 seats to 50 seats, new life, reaching 150 thousand arrivals. The rate of successful and punctual pickup is 99.97%.

      * Japanese customer care staff always create peace of mind and trust for customers ...