Tìm kiếm
Lượt truy cập
- Tổng truy cập57,915,529
Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam
Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.
*Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...
Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.
WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)
Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.
The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.
Enjoy life, enjoy Arita experience!
Đọc nhiều nhất
- Phạm Hổ - Thơ viết cho nhi đồng
- Người của giang hồ (5): Lâm Chín ngón
- Thuật quan sát người (4)
- Người của giang hồ (11): Hải bánh
- Người của giang hồ (8): Huỳnh Tỳ
- Thuật quan sát người (2)
- Hoàng hôn của những thần tượng
- Vài nét về tục Cúng Mụ, đầy tháng, thôi nôi
- Vài tư liệu về Tục thờ Thánh Mẫu
- Chùm thơ về Tây Nguyên
Lý luận phê bình văn học
2. Những khuynh hướng tư tưởng của Phật giáo đời Trần
Phật giáo đời Trần dù là Phật giáo Nhất tông, nhưng không phải thuần nhất tư tưởng Thiền học mà còn chịu sự tác động của nhiều khuynh hướng tư tưởng khác nhau như Tịnh độ tông, Mật tông, Giáo tông…
Trước hết, Thiền học đời Trần chịu sự tác động của Thiền phái Lâm Tế-Trung Hoa. Lâm Tế là một trong năm Thiền phái lớn ở Trung Hoa. Thời Trần Thái Tông tại vị, có hai vị Thiền sư Trung Hoa là Thiên Phong và Đức Thành sang nước ta và được vua mời tham dự những buổi đàm luận Thiền học tại viện Tả Nhai và chùa Phổ Minh. Thiên Phong thuộc Thiền phái Lâm Tế, sự xuất hiện của sư đã đem đến kết quả là truyền thống Lâm Tế được lưu hành vào Thiền học Việt Nam. Những tư tưởng Vô tâm, Mê ngộ bất dị…; những nguyên tắc Tam cú, Tam huyền, Tam yếu, Tứ liệu giản, Tứ chiếu dụng, Tứ tân chủ…; những phương pháp khai đạo bằng cách hét, dùng gậy đánh… đều là những vấn đề xuất xứ từ Lâm Tế và chúng được Thiền học đời Trần tiếp biến và áp dụng.
Kế đến, Thiền học đời Trần chịu ảnh hưởng của Tịnh độ tông. Vào thời Tống, Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ (904-975) thuộc Thiền phái Pháp Nhãn đã đưa pháp môn niệm Phật vào trong Thiền giới và sư đã rất thành công trong vấn đề này, nhưng lần lần về sau khuynh hướng niệm Phật phát triển mạnh đến nỗi nó lấn át luôn cả Thiền, đến khi Vĩnh Minh mất, Thiền phái Pháp Nhãn suy đồi và nhường chỗ cho Tịnh Độ tông. Việc đưa pháp môn niệm Phật vào Thiền học của Vĩnh Minh chắc chắn đã tác động đến Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ-Trần Tung và Điều Ngự Giác Hoàng-Trần Nhân Tông, các vị đã ứng dụng điều đó vào Thiền học nước nhà. Nhưng pháp môn niệm Phật khi được các Thiền gia, Thiền sư ứng dụng vào trong Thiền học không thuần túy là niệm Phật để cầu vãng sanh Tây phương Tịnh độ mà nó được soi sáng bằng tuệ quán Thiền tông. Dưới cái nhìn Thiền học, cõi Tịnh độ là tâm thanh tịnh, đức A-di-đà là tự tính sáng suốt của mọi người, cho nên niệm Phật cũng là một phương pháp Thiền định nhằm gạn lọc tâm ý, diệt trừ phiền não, hiển bày tự tính Di-đà, trở về với duy tâm Tịnh độ:
"Quản thủ nhãn tiền Tịnh độ, nhận lai tâm lý Di-đà". [93,215] (Tịnh độ giữ gìn trước mắt, Di-đà nhận lấy trong tâm) [93,216] (Khải bạch-Trần Thái Tông)
Còn Tuệ Trung Thượng Sĩ thì bảo:
"Tâm nội Di-đà tử ma khu, Di-đà vốn thực pháp thân ta,
Đông tây nam bắc pháp thân chu. Nam bắc đông tây khắp chói lòa.
Trường không chỉ kiến cô luân nguyệt, Trăng thu ngự giữa trời cao rộng,
Cự hải tr?ng tr?ng dạ mạn thu". Đêm lặng trùng dương rạng chiếu xa".
[93,242] [31,46]
(Thị tu Tây phương bối-Trần Tung)
Điều Ngự Giác Hoàng cũng đồng một quan niệm như vậy:
"Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương; Di-đà là tự tánh sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc". [93,498] (Cư trần lạc đạo phú, hội 2-Trần Nhân Tông)
Bên cạnh đó, Thiền học đời Trần còn dung hòa với Giáo tông. Thỉ chung, Thiền học chủ trương "Bất lập văn tự. Giáo ngoại biệt truyền. Trực chỉ chân tâm. Kiến tính thành Phật" , nên chỉ chú trọng đến việc tọa thiền và tham cứu thoại đầu công án, giữa Thiền và Giáo dường như có mối quan hệ tương khắc lẫn nhau. Riêng nước ta, sự kết hợp giữa Thiền và Giáo vốn đã xuất hiện ở các Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường chứ không phải đợi đến khi Thiền phái Trúc Lâm ra đời thì tình trạng này mới xảy ra, nhưng chắc chắn rằng kể từ khi hợp nhất các Thiền phái lại thành một Thiền phái duy nhất-Trúc Lâm, thì việc giảng dạy giáo lý cho các Thiền sinh theo hướng phân tích, chú giải và bình luận mới được đại chúng hóa, mới được thúc đẩy mạnh và phát triển thành khuynh hướng Thiền-Giáo nhất trí. Giác Hoàng Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang là những Thiền sư đóng góp rất nhiều công sức vào phong trào học Phật thời bấy giờ. Các Thiền sinh không chỉ được dạy cho các bộ sách ngữ lục của chư Tổ mà còn được học tập các kinh như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Già, Bát-nhã… Vào đầu thế kỷ XIV, Thiền học Đại Việt đã hoàn toàn dung hợp với việc học giáo lý theo điển tịch và chương cú.
Cuối cùng, Thiền học đời Trần còn chịu sự tác động của Mật giáo. Thiền học đời Lý chịu ảnh hưởng ít nhiều từ Mật tông nhưng bước sang đời Trần, yếu tố Mật giáo được gạn lọc khỏi hẳn Thiền học qua bàn tay kiến tạo của các vị Thiền sư, Thiền gia như Viên Chứng, Ứng Thuận, Thái Tông, Đại Đăng và Tuệ Trung Thượng Sĩ. Đầu thế kỷ XIV, Mật giáo bắt đầu đan xen trở lại Thiền học; điều này do hai nguyên nhân, trước hết là do sự tác động mạnh mẽ của Mật giáo triều Nguyên vào nước ta, thứ đến là do tình hình nội tại trong nước, phong trào Phật học phát triển, việc khắc bản Đại tạng kinh được thực hiện hoàn tất vào cuối thế kỷ XIII, nhiều văn bản mới về Mật giáo trong Đại tạng được đem ra nghiên cứu và thực hành, chính vì thế nên sự ảnh hưởng của Mật giáo vào Thiền học được khôi phục trở lại. Sự thực hành Mật giáo trong Thiền môn ngày càng lan rộng, ngay cả những vị đứng đầu Giáo hội Trúc Lâm còn đứng ra chủ trì những pháp hội thuộc về Mật tông như Nhị tổ Pháp Loa làm lễ quán đỉnh cho Thượng hoàng Anh Tông, Văn Huệ Vương, Uy Huệ Vương…, Tam tổ Huyền Quang tạo lập Cửu phẩm liên hoa đài có thể xoay vòng quanh trong khi niệm Phật và gia trì thần chú. Ngoài ra, trong Thiền môn lúc này đã bắt đầu đọc tụng các thần chú như Phật đỉnh thủ Lăng Nghiêm, Đại bi tâm Đà-la-ni, Vãng sinh Tịnh độ thần chú, Tiêu tai cát tường thần chú, Quan âm linh cảm chân ngôn… và tổ chức các trai đàn chẩn tế cô hồn với tên gọi là Diệm khẩu phổ thí pháp hội-nghi thức mang nặng màu sắc Mật tông. Năm 1299, cuốn sách Phật giáo pháp sự đạo tràng công văn cách thức được ấn hành. Điều này chứng minh rằng các nghi lễ cầu an, cầu siêu, thí thực… đã có nghi thức riêng biệt và các bản văn sớ, điệp, tấu… dùng trong nghi lễ cúng tế đã rất phổ biến rồi.
3. Phật giáo đời Trần với văn hóa và chính trị
Phật giáo Trúc Lâm là Phật giáo nhập thế, đem Phật giáo phụng sự cho đời sống tâm linh và đời sống xã hội của mọi người. Nhập thế không phải là chủ trương của riêng Phật giáo đời Trần, trước kia ở các thời Bắc thuộc, Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý, các Thiền sư từng xả thân vào nhân gian để hóa độ quần sinh. Nhưng có lẽ trong đời Trần xu hướng nhập thế của Phật giáo mới được phát huy một cách quy mô và có hệ thống, từ đó nó trở thành một đặc trưng nổi bật của Phật giáo Trúc Lâm và góp phần tạo nên bản sắc Thiền tông Đại Việt. Điều này được thể hiện qua những phát ngôn của các Thiền sư, Thiền gia cũng như sự dấn thân của họ vào cuộc sống trần tục; chẳng hạn, Quốc sư Viên Chứng từng vạch ra lối sống của một nhà chính trị Phật tử như sau: "Phàm đã là bậc nhân quân tất phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình; lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình. Nay muôn dân muốn đón bệ hạ về thì bệ hạ không về sao được, duy có việc nghiên cứu nội điển xin dừng xao lãng mà thôi." (Thiền tông chỉ nam tự-Trần Thái Tông) [93,29]. Trần Thái Tông thì cho rằng nhà chính trị phải có trách nhiệm đem Phật giáo vào trong xã hội: "Đại giáo của đức Phật ta phải nhờ tiên thánh mà truyền lại cho đời." (Thiền tông chỉ nam tự-Trần Thái Tông) [93,28]. Còn Tuệ Trung Thượng Sĩ thì chủ trương sống "trộn lẫn cùng thế tục, hòa cùng ánh sáng chứ không trái hẳn với người đời" (Thượng sĩ hành trạng-Trần Nhân Tông) [93,545]. Riêng Trần Nhân Tông lại quan niệm: "Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc; Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả đồ công." (Cư trần lạc đạo phú, hội 3-Trần Nhân Tông) [93,506] và vua còn ngự thân đi khắp các thôn quê phá trừ dâm từ, khuyên dân thực hành Thập thiện.
Nhìn chung các Thiền sư, Thiền gia và những nhà lãnh đạo tối cao của Giáo hội Trúc Lâm đều đồng một quan điểm đem Phật giáo vào trần tục nhằm làm tốt đẹp cho cuộc sống của nhân sinh, chứ không hề có ý niệm ẩn náu nơi sơn lâm, quay lưng với thế sự. Chính vì lẽ ấy mà Phật giáo đã tạo ra cho Đại Việt một nền chính trị và văn hóa rất đặc thù mà không phải thời nào cũng có được.
Về chính trị, như trên có nói, các Thiền sư đời Trần mặc dù không trực tiếp tham gia vào chính sự nhưng điều đó không có nghĩa là Phật giáo mất đi vị trí của mình trong trường chính trị, trái lại từ lâu Phật giáo đã trở thành yếu tố quan trọng bậc nhất không thể thiếu trong vấn đề liên kết nhân tâm cả nước. Do thấm nhuần tinh thần nhà Phật nên các nhà lãnh đạo quốc gia thực thi những chính sách khoan dân, thân dân, bình dị và dân chủ. Điều này không khó tìm thấy trong chính sách trị quốc cũng như trong đời sống của các vị thiên tử đời Trần. Vào những năm giặc giã, mất mùa, đói kém, lũ lụt, bệnh tật… các vua nhà Trần thường hay miễn giảm tô thuế, phát chẩn cứu đói, ban thuốc trị bệnh cho dân chúng. Bên cạnh đó, các vua nhà Trần luôn rất độ lượng và khoan dung đối với bề tôi của mình; chẳng hạn, vua Thái Tông tha lỗi cho Hoàng Cự Đà vì hiềm việc nhỏ mà đánh mất trách nhiệm với dân với nước , vua Thánh Tông cho đốt tráp chứa tài liệu văn thư hàng giặc của các quan lại. Trong thời đại nhà Trần, tinh thần dân chủ rất được đề cao, những cuộc họp hội nào mang tầm vóc quốc gia thì triều đình đều trưng cầu dân ý để quyết định chứ không tùy tiện hành sự, chẳng hạn như hội nghị Bình Than (1282) và Diên Hồng (1285) là những minh chứng.
Chính sách thân dân được thấy rất rõ trong việc làm của các vua nhà Trần, các vua thường hay du hành trong nhân gian để lắng nghe nguyện vọng và ý kiến của người dân. Đặc biệt là Nhân Tông, lúc sinh tiền, mỗi khi ra đường gặp gia nhân của vương thần thì Nhân Tông hay dừng lại hỏi thăm, không cho những người tùy tùng mình nạt nộ họ, đến khi xuất gia thì du phương khắp nhân gian để khuyến tấn người dân hướng về nẻo thiện. Nhờ thân cận và hòa đồng với đồng bào nên khi Giác Hoàng viên tịch người dân đi dự lễ truy điệu đông đến nỗi không còn chỗ trống để cung tống kim quan của Giác Hoàng đến nơi trà tỳ. Điểm nổi bật đáng ghi nhận ở Trần Nhân Tông là vua đã tận dụng được tiềm năng to lớn của Phật giáo để giúp dân cứu nước. Giáo hội Trúc Lâm do Giác Hoàng sáng lập là lực lượng tôn giáo hùng cường yểm trợ cho vương triều nhà Trần trong suốt thời gian dài tồn tại, rõ ràng Nhân Tông đã kết hợp hài hòa giữa hai nhiệm vụ phụng sự đạo pháp và dân tộc.
Về văn hóa, Phật giáo có đóng góp khá nhiều cho nền văn hóa Đại Việt. Phật giáo đã thổi vào nền văn hóa Đại Việt luồng gió tinh thần khoan dung, nhân từ và tự do làm cho nó có được tính chất khai phóng và khoáng đãng hơn bao giờ hết.
Dù chiếm giữ vị trí chủ đạo trên trường chính trị và văn hóa nhưng Phật giáo chưa từng kỳ thị và chèn ép tôn giáo khác, chính những nhà chính trị Phật tử thuần thành như Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông… đã thực thi chính sách tôn giáo tự do-bình đẳng, chủ trương dung hợp tam giáo trong văn hóa giáo dục, đồng thời tạo điều kiện cho Đạo giáo và Nho giáo khuếch trương thế lực của mình. Nền học thuật đời Trần do thấm nhuần tinh thần Phật giáo mà trở nên rất phóng khoáng, không bị ràng buộc vào chế độ khoa cử, không có tính chất từ chương, văn chương cú pháp chỉ là thứ yếu, kiến thức thực tế về đạo lý mới là điều cốt lõi. Giới sĩ phu dù xuất thân từ truyền thống tôn giáo nào cũng được vương triều đãi ngộ một cách bình đẳng, cho nên hiền sĩ khắp nơi quy tụ về rất đông và đều được tạo điều kiện để tiến thân lập nghiệp. Đó là nguyên nhân khiến cho văn học đời Trần phong phú, rực rỡ và đầy màu sắc.
Văn hóa đời Trần-nền văn hóa lấy đạo Phật làm cốt tủy là nền văn hóa độc lập, khác hẳn với nền văn hóa phương Bắc. Đầu thế kỷ XIV, một số Nho gia như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh… muốn thay đổi văn hóa nước ta theo thể chế văn hóa Trung Hoa nhưng vua Minh Tông không chấp nhận và bảo rằng Nam Bắc có phong tục khác nhau, mỗi nước đều có phép tắc riêng của mình, không cần bắt chước theo người, sự lập pháp của tổ tiên đều có dụng ý sâu xa là không muốn bị lệ thuộc và đồng hóa theo phương Bắc. Đến thời Nghệ Tông, văn hóa Đại Việt đã bị các phần tử Nho gia làm thay đổi nhiều, nó gần như bị Tống hóa và mất hết tính độc lập của mình. Vua Nghệ Tông rất tiếc về việc này và yêu cầu quay lại với thể chế văn hóa đời vua Minh Tông. Rõ ràng, Phật giáo đã duy trì và bảo vệ tính độc lập cho nền văn hóa nước ta trong một chặn đường rất dài nhưng đến cuối thế kỷ XIV, Nho gia một mặt vì kỳ thị Phật giáo, một mặt vì muốn giành lấy vị trí độc tôn trên lĩnh vực chính trị và văn hóa nên đã Tống hóa nền văn hóa Đại Việt, độc tôn Nho giáo, trái hẳn tinh thần dung hợp vốn có trước kia.
Như vậy, đạo Phật đã đi cùng dân tộc Đại Việt trong một thời gian khá dài-trên một thế kỷ và khoảng ngần ấy thời gian, Phật giáo không ngừng đóng góp công sức và trí tuệ của mình vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Phật giáo đã rất tích cực trong việc khôi phục những truyền thống văn hóa Đại Việt mà những truyền thống ấy đã bị phong kiến phương Bắc chôn vùi trong ngàn năm đô hộ, đồng thời tiếp tục gìn giữ và phát huy chúng nhằm tạo cho dân tộc ta có được một nền văn hóa thuần túy chất Việt, độc lập hoàn toàn với phương Bắc. Đặc biệt, trong thời đại nhà Lý và nhà Trần, bằng khuynh hướng nhập thế-tùy tục, Phật giáo đã để lại dấu ấn rất sâu sắc trong đời sống tâm linh cũng như đời sống xã hội của người dân. Nhờ tiếp nhận tinh thần từ ái, hòa hợp, thanh thoát và vị tha mà nền văn học nghệ thuật Sơ kỳ Trung đại nước ta có được tính chất dung hợp và khai phóng, từ đó một bộ phận văn học đặc thù được hình thành với tên gọi là văn học Thiền tông Lý-Trần. Tuy văn học Thiền tông Lý-Trần là một bộ phận của văn học Lý-Trần, nằm trong hệ quy chiếu của văn học Trung đại Việt Nam nhưng nó có sắc thái và đặc điểm đặc trưng của riêng mình.
(còn tiếp)
Nguồn: Điển cố Phật giáo trong văn học Thiền tông đời Trần. Tác giả: Hiểu Đông. NXB Tôn giáo. 2009.
Tìm kiếm
Lượt truy cập
- Tổng truy cập57,915,530
Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam
Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.
*Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...
Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.
WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)
Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.
The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.
Enjoy life, enjoy Arita experience!
Đọc nhiều nhất
- Phạm Hổ - Thơ viết cho nhi đồng
- Người của giang hồ (5): Lâm Chín ngón
- Thuật quan sát người (4)
- Người của giang hồ (11): Hải bánh
- Người của giang hồ (8): Huỳnh Tỳ
- Thuật quan sát người (2)
- Hoàng hôn của những thần tượng
- Vài nét về tục Cúng Mụ, đầy tháng, thôi nôi
- Vài tư liệu về Tục thờ Thánh Mẫu
- Chùm thơ về Tây Nguyên








