Tìm kiếm

Lượt truy cập

  • Tổng truy cập57,861,460

Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

     

    Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

    *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

    WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

    Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

    The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

    Enjoy life, enjoy Arita experience!

Tiểu thuyết

Ỷ Thiên Đồ Long ký

Kim Dung

  • Thứ tư, 15:25 Ngày 23/06/2021
  • Ỷ Thiên Đồ Long ký

    Tiểu Chiêu nói:

    - Công tử đừng vội nản lòng, không chừng còn có lối đi khác cũng nên.

    Nàng cầm tấm bản đồ, cúi đầu xem kỹ, nhưng trên đó vẽ rõ ràng, ngoài lối đi kia, không còn đường nào khác.

    Trương Vô Kỵ thấy nàng lộ vẻ thất vọng, bèn cười gượng, nói:

    - Di thư của Dương giáo chủ có viết, nếu ai luyện thành thần công Càn khôn đại na di là có thể đẩy cánh cửa đá mà ra. Thời nay hình như chỉ có một mình Dương Tiêu tiên sinh luyện môn thần công đó, nhưng công lực còn non, dù Dương tiên sinh có ở đây cũng chưa chắc đẩy nổi. Hơn nữa, cũng chả biết cửa Vô Vọng nằm ở chỗ nào, trên bản đồ cũng không ghi rõ, vậy biết đường nào mà lần?

    Tiểu Chiêu nói:

    - Vị trí “Vô Vọng” ư? Đó là một phương vị trong sáu mươi tư quẻ của Phục Hy. Càn đến Ngọ thì hết, Khôn đến Tý thì hết, dương ở phương nam, âm ở phương bắc. Vị trí “Vô Vọng” nằm giữa hai vị trí “Minh Di” và “Tùy”.

    Nói đoạn nàng liền phân chia phương vị trong thạch thất, bước tới góc tây bắc, nói:

    - Ở chỗ này đây.

    Trương Vô Kỵ phấn chấn hẳn lên, nói:

    - Thật vậy ư?

    Chàng chạy tới kho binh khí, lấy một cây rìu lớn, mang tới cạo sạch đất cát bám trên vách đá, quả nhiên lộ ra dấu vết một cánh cửa, chàng nghĩ thầm: “Ta tuy không biết phép Càn khôn đại na di, nhưng Cửu dương thần công ta đã luyện thành, uy lực chắc gì đã thua kém”. Chàng bèn tụ khí vào đan điền, vận lực ra hai cánh tay, hai chân xoải thành cung tiễn bộ, từ từ đẩy ra. Đẩy hồi lâu, cánh cửa đá không nhúc nhích. Bất kể hai tay chàng thay đổi bộ vị thế nào, vận chân khí ra sao, tới khi hai cánh tay mỏi nhừ, xương cốt toàn thân kêu lục cục mà cánh cửa đá vẫn trơ trơ, liền làm một với vách đá, không xê dịch chút nào.

    Tiểu Chiêu khuyên:

    - Công tử, đừng thử nữa, để con mang thuốc súng lại xem sao.

    Trương Vô Kỵ vui mừng:

    - Đúng rồi, ta quên biến là mình có thuốc súng.

    Hai người đem nửa thùng thuốc súng nhồi vào cánh cửa đá, đốt dây dẫn hỏa. Sau tiếng nổ, cánh cửa bị lõm vào đến bảy, tám thước, song vẫn chưa thấy đường hầm đâu, xem chừng tảng đá này bề dày còn hơn cả bề rộng.

    Trương Vô Kỵ cảm thấy mình có lỗi, chàng cầm tay Tiểu Chiêu, dịu dàng nói:

    - Tiểu Chiêu, toàn do ta cả, làm cho cô nương cũng bị nhốt không ra được.

    Tiểu Chiêu ngước đôi mắt trong veo chăm chăm nhìn chàng, nói:

    - Trương công tử, công tử phải trách con mới đúng; nếu con không dẫn công tử xuống đây, thì đâu đến nỗi… đến nỗi…

    Nàng dùng tay áo lau nước mắt, một lát sau, nàng bỗng cười khanh khách, nói:

    - Đã không thoát ra được, thì lo buồn cũng chẳng ích gì. Thôi để con hát cho công tử nghe một bài được chứ?

    Trương Vô Kỵ thực chẳng còn lòng dạ nào nghe hát, nhưng không nỡ làm Tiểu Chiêu cụt hứng, mỉm cười đáp:

    - Được đấy!

    Tiểu Chiêu ngồi xuống bên chàng, cất tiếng hát:

    Sự đời lúc xuống lúc lên,

    Nhân sinh đâu chỉ là hên là mừng.

    Thế gian khi phế khi hưng,

    Trong hung tàng cát, cát hung đổi dời.

    Trương Vô Kỵ nghe đến câu “Trong hung tàng cát, cát hung đổi dời”, nghĩ đến một đời chìm nổi của mình, ngẫm quả đúng như thế. Lại thấy giọng Tiểu Chiêu trong trẻo, uyển chuyển lên bổng xuống trầm, thì bao nhiêu buồn phiền tiêu tan cả. Tiểu Chiêu lại ca tiếp:

    Khi đầy cũng có khi vơi,

    Có ai giàu mãi mấy đời xênh xang,

    Trăng tròn rồi lại trăng tàn

    Trời cao đất thấp đã hoàn mỹ chăng?

    Trương Vô Kỵ nói:

    - Tiểu Chiêu, cô nương ca hay lắm, ai đặt ra bài hát này thế?

    Tiểu Chiêu cười đáp:

    - Công tử giễu con rồi, con ca đâu có gì là hay? Con nghe người ta hát, nhớ lõm bõm vài câu, nên cũng không biết là do ai đặt.

    Trương Vô Kỵ thích câu:

    “Trời cao đất thấp đã hoàn mỹ chăng?”

    Bèn ngâm lại câu đó. Tiểu Chiêu hỏi:

    - Công tử thích nghe hát thật, hay chỉ giả vờ?

    Trương Vô Kỵ cười nói:

    - Thích nghe là thích nghe, sao lại có chuyện giả vờ ở đây? Dĩ nhiên là thích thật đấy.

    Tiểu Chiêu nói:

    - Được, thế thì để con hát một bài nữa.

    Nàng gõ nhẹ năm ngón tay trái trên đá làm nhịp, hát:

    Chớ nên cau mặt nhíu mày,

    Cũng đừng vỗ ngực ta hay ta giàu.

    Đẹp giàu phỏng được bao lâu?

    Ngày nào xanh tóc, giờ đầu bạc phơ.

    Giàu sang, khôn khéo có thừa

    Khác chi nghèo khó, đần ngu vậy mà.

    Có người thì cũng có ta,

    Xưa nay, đây đó vốn là như nhau.

    Cõi trần kẻ trước người sau

    Cuối cùng cũng đến cái cầu xuôi tay.

    Hôm nay hãy biết bữa nay,

    Trăm năm thấm thoắt đã hay một đời.

    Mấy ai thọ được bảy mươi,

    Thời gian như nước chảy xuôi qua cầu.

    Bài ca triết lý sâu xa, rõ ràng người đặt ra nó đã nếm trải đủ mùi, hiểu biết nhân tình thế thái, nhưng từ miệng một thiếu nữ hát ra lại xem chừng không hợp, đúng là cô bé nghe người ta hát rồi thuộc lòng. Trương Vô Kỵ tuổi còn trẻ, nhưng mười năm qua đã nếm trải đủ điều gian khổ, đêm nay bị kẹt giữa lòng núi, trước mắt thấy không còn đường sống, miệng nhẩm lại câu “Cõi trần kẻ trước người sau, Cuối cùng cũng đến cái cầu xuôi tay”, bất giác não lòng. “Cái cầu xuôi tay” ấy là ngày từ giã cõi đời. Chàng đã nhiều phen lâm vào giây phút sống còn, nhưng khi đó chỉ có một đường, hoặc sống hoặc chết, không liên lụy đến ai khác. Lần này không chỉ kéo thêm cô bé Tiểu Chiêu vào tử lộ, mà nào chuyện tồn vong của Minh giáo, sự an nguy của Dương Tiêu, Dương Bất Hối cùng bao người khác, nào mối thâm cừu giữa nghĩa phụ Tạ Tốn với Thành Côn, đều có liên quan đến chàng, quả thực không đành lòng mà chết.

    Chàng đứng dậy, lại tới đẩy cái cửa đá, chỉ cảm thấy chân khí trong cơ thể lưu chuyển, tựa hồ trong người súc tích một nguồn khí lực vô cùng vô tận mà chưa được sử dụng, chẳng khác nào dòng nước lũ cuồn cuộn chảy trên sông, bị hai bờ đê chặn lại không cho tràn ra.

    Chàng thử đẩy ba lần vẫn không xong, đành thúc thủ. Bỗng Tiểu Chiêu lại cứa ngón tay lấy máu quệt lên mảnh da dê, nói:

    - Trương công tử, công tử hãy thử luyện tâm pháp “Càn khôn đại na di” xem sao. Không chừng công tử thông minh hơn người, luyện một lần là được.

    Trương Vô Kỵ cười đáp:

    - Các vị giáo chủ tiền nhiệm của Minh giáo luyện suốt đời còn chưa ai thành công; họ làm giáo chủ thì dĩ nhiên thông minh hơn ta nhiều; ta chỉ luyện một sớm một chiều, làm sao thành nổi?

    Tiểu Chiêu cất giọng hát nho nhỏ:

    Hôm nay hãy biết bữa nay,

    Trăm năm thấm thoắt đã hay một đời.

    - Công tử cứ luyện đi, một sớm một chiều cũng tốt chứ sao.

    Trương Vô Kỵ mỉm cười, đón lấy mảnh da dê, miệng nhẩm đọc, thấy trên đó viết toàn là cách vận hành chân khí, cách di cung sử kình. Thử làm theo, không tốn chút sức lực nào đã làm được ngay. Mảnh da viết: “Tâm pháp bậc thứ nhất này, người có ngộ tính cao thì bảy năm sẽ luyện thành, người kém hơn sẽ tốn mười bốn năm”. Chàng lấy làm lạ: “Cái này đâu có gì khó mà phải tốn bảy năm?”

    Chàng đọc tiếp tâm pháp bậc thứ hai, theo đó mà luyện, chỉ một lát chân khí đã quán thông, cảm thấy tựa hồ từ mười ngón tay có khí lạnh bắn ra. Trong đó lại có ghi chú: “Tâm pháp bậc thứ hai, người có ngộ tính cao thì bảy năm sẽ luyện thành, người kém hơn sẽ tốn mười bốn năm. Nếu tới năm thứ hai mươi mốt mà không tiến triển thì chớ luyện bậc thứ ba, đề phòng tẩu hỏa nhập ma, hết bề cứu vãn”.

    Chàng vừa mừng vừa lo, luyện tiếp bậc thứ ba. Lúc này hàng chữ đã mờ, Trương Vô Kỵ định dùng dao cứa ngón tay lấy máu thì Tiểu Chiêu đã làm trước, đang bôi máu lên mảnh da. Trương Vô Kỵ vừa đọc vừa luyện theo, bậc thứ ba rồi bậc thứ tư, luyện được một cách dễ dàng.

    Tiểu Chiêu thấy mặt chàng một bên đỏ như máu, một bên lại xanh lè thì hơi lo sợ, nhưng thấy chàng vẫn thần định khí túc, đôi mắt sáng long lanh, nên cũng yên tâm. Khi chàng luyện tâm pháp bậc thứ năm, mặt chàng chợt xanh chợt đỏ, lúc xanh thì thân hình run rẩy như trong băng giá; lúc đỏ thì mồ hôi vã ra như tắm.

    Tiểu Chiêu rút khăn tay, đưa lên toan lau mồ hôi trán cho chàng, khăn vừa chạm vào trán thì tay nàng bị giật mạnh một cái, thân hình ngả sang một bên, suýt nữa ngã ngửa. Trương Vô Kỵ đứng dậy, giơ tay áo lau mồ hôi, nhất thời chưa hiểu tại sao, chỉ biết rằng mình đã luyện thành tâm pháp bậc thứ năm.

    Thì ra tâm pháp” Càn khôn đại na di” này vốn là một pháp môn vận kình sử lực cực kỳ xảo diệu, đạo lý căn bản là làm sao phát huy tối đa tiềm lực có sẵn trong cơ thể mỗi người. Trong cơ thể mỗi người đều có nguồn tiềm lực rất to lớn, có điều bình thời không vận dụng được. Còn khi gặp tình huống khẩn cấp, như cháy nhà chẳng hạn, một người bình thường sức trói gà không chặt nhưng lại có thể vác cả ngàn cân. Trương Vô Kỵ sau khi luyện xong Cửu dương thần công thì lực đạo súc tích trong người không ai bì kịp, chỉ là chưa có cao nhân chỉ dẫn nên chưa biết cách sử dụng thôi. Bây giờ khi chàng học tâm pháp Càn khôn đại na di, tiềm lực trong cơ thể cứ trào dâng như hồng thủy, không gì chế ngự được.

    Môn tâm pháp này sở dĩ khó luyện cho thành, sơ sảy một chút là bị tẩu hỏa nhập ma, hoàn toàn do phép vận kình vừa phức tạp vừa xảo diệu vô cùng trong khi người luyện công thì lại chưa có nội lực hùng hậu tương xứng. Giống như bảo một đứa bé bảy, tám tuổi múa một cây chùy nặng trăm cân, chùy pháp càng tinh vi càng dễ khiến đứa bé tự đánh vào mình vỡ đầu chảy máu. Nhưng nếu người sử dụng chùy là một đại lực sĩ thì dĩ nhiên không sao cả. Những người trước đây luyện môn tâm pháp này chỉ vì nội lực có hạn, cứ miễn cưỡng tu luyện, thành thử rơi vào tình trạng lực bất tòng tâm.

    Các vị giáo chủ Minh giáo thời trước, ai chả hiểu đạo lý hệ trọng ấy, nhưng thân làm đến giáo chủ, chí kiên nghị có thừa, đâu chịu thua kém ai, cũng không vì thấy khó mà bỏ cuộc. Đại phàm cao thủ võ học đều thuộc lòng câu “Tinh thành sở chí, kim thạch vi khai”, nên ai cũng hăm hở dốc lòng tu tập, đâu biết rằng sức người có hạn, nhưng cứ đinh ninh “nhân định thắng thiên”, để đến nỗi nuốt hận mà chết.

    Trương Vô Kỵ sở dĩ chỉ tốn nửa ngày đã luyện thành, trong khi người thông minh tài trí, võ nghệ cao cường hơn hẳn chàng mà tu luyện mấy chục năm vẫn không xong, cái khác nhau chỉ là một bên nội lực có thừa, một bên nội lực chưa đủ thôi.

    Trương Vô Kỵ sau khi luyện bậc thứ năm, cảm thấy tinh thần khí lực toàn thân có thể điều khiển theo ý muốn, muốn phát là phát, muốn thu là thu, nhất nhất tùy ý, từng đường gân thớ thịt trong cơ thể có thể điều khiển dễ dàng. Lúc này chàng quên cả việc đẩy cánh cửa đá, chuyên tâm luyện tiếp tâm pháp bậc thứ sáu; chỉ hơn một canh giờ sau đã luyện sang bậc thứ bảy.

    Tâm pháp bậc thứ bảy so với bậc thứ sáu huyền diệu và sâu xa gấp bội, nhất thời khó bề hiểu hết. Cũng may chàng tinh thông y đạo, mạch lý, gặp chỗ chưa rõ là lại đem y lý ra ấn chứng, nên quán thông được ngay. Khi luyện được quá nửa rồi, bỗng thấy khí huyết trào lên, tim đập mạnh. Chàng định thần, làm lại từ đầu, vẫn bị như thế. Từ khi chàng luyện tâm pháp bậc thứ nhất đến chỗ này, chưa bao giờ gặp tình trạng như vậy.

    Chàng bỏ qua một câu, luyện tiếp xuống dưới, lại thấy thuận lợi, nhưng được vài câu, lại gặp trở ngại. Từ đó về sau, trở ngại càng lúc càng nhiều, tính ra có tổng cộng mười chín câu chưa luyện được.

    Trương Vô Kỵ trầm ngâm một hồi, đặt mảnh da dê lên trên đá, cung kính quỳ xuống vái mấy lần, khấn:

    - Đệ tử Trương Vô Kỵ tình cờ tìm được tâm pháp thần công của Minh giáo, chỉ vì mong thoát khỏi khốn cảnh tìm đường sống, hoàn toàn không có ý định ăn cắp bí kíp của quý giáo. Sau khi thoát khỏi hiểm cảnh, đệ tử sẽ đem thần công này tận lực giúp quý giáo, không dám phụ lòng vun đắp và đại ân cứu mạng của của các vị giáo chủ tiên liệt.

    Tiểu Chiêu cũng quỳ xuống lạy mấy lạy, lầm rầm khấn:

    - Kính mong liệt đại giáo tông phù hộ độ trì cho Trương công tử trùng chỉnh Minh giáo, làm rạng rỡ uy danh của liệt tổ.

    Trương Vô Kỵ đứng dậy, nói:

    - Đệ tử không phải là giáo đồ Minh giáo, theo lời giáo huấn của thái sư phụ đệ tử, sau này đệ tử cũng không thể gia nhập Minh giáo được. Nhưng sau khi đệ tử đọc di thư của Dương giáo chủ thì biết tôn chỉ của Minh giáo thật là quang minh chính đại, thể nào đệ tử cũng đem hết khả năng của mình giải thích những điều hiểu lầm cho các đại môn phái, để đôi bên ngừng tranh chấp.

    Tiểu Chiêu nói:

    - Trương công tử, công tử bảo còn mười chín câu chưa luyện được, sao không nghỉ một lát cho tinh thần sung túc, biết đâu lại chả luyện thành?

    Trương Vô Kỵ nói:

    - Hôm nay ta đã luyện tâm pháp Càn khôn đại na di xong bậc thứ bảy rồi, tuy phải bỏ qua mười chín câu, không khỏi có chút khiếm khuyết, nhưng cũng như câu hát ban nãy của cô nương: “Trăng tròn rồi lại trăng tàn, Trời cao đất thấp đã hoàn mỹ chăng?”, ta nào dám tham lam, chưa biết đủ? Ta có phúc trạch công đức gì mà dám nhận tâm pháp thần công của Minh giáo? Để lại mười chín câu chưa luyện thành, đó mới là đạo lý đấy.

    Tiểu Chiêu nói:

    - Công tử nói chí phải.

    Nàng cầm mảnh da dê, hỏi Trương Vô Kỵ chỉ cho biết những câu nào chàng chưa luyện thành, lẩm nhẩm mấy lần học thuộc lòng. Trương Vô Kỵ cười hỏi:

    - Cô nương ghi nhớ để làm gì vậy?

    Tiểu Chiêu đỏ mặt, nói:

    - Không làm gì cả. Con thấy đến công tử mà còn chưa luyện được, thì xem thử coi nó khó tới mức nào.

    Ai ngờ Trương Vô Kỵ là người không quá chú trọng cái gì, thấy nên dừng thì dừng, rất hợp với câu “tri túc bất nhục”[84]. Nguyên vị cao nhân năm xưa sáng chế ra tâm pháp Càn khôn đại na di tuy nội lực mạnh thật, song cũng chưa bằng Cửu dương thần công, chỉ luyện đến bậc thứ sáu là dừng. Tâm pháp vị đó viết trong bậc thứ bảy, chính vị đó cũng chưa luyện tới, chỉ là nhờ trí tuệ thông minh mà tưởng tượng, biến hóa ra thôi. Mười chín câu Trương Vô Kỵ luyện không thông, toàn là do vị cao nhân đó tưởng tượng thêm vào, tưởng là đúng nhưng thực chất là đi vào sai lầm. Nếu Trương Vô Kỵ một mực cầu toàn, cứ đòi luyện cho tận thiện tận mỹ mới dừng, ắt sẽ bị tẩu hỏa nhập ma ở cửa ải cuối cùng này, không điên khùng, ngây độn, thì cũng bại liệt toàn thân, thậm chí còn đứt kinh mạch mà bỏ mạng cũng không chừng.

    Hai người gom đất đá đắp lên hài cốt của vợ chồng Dương Đính Thiên đâu đấy, rồi đi tới bên cánh cửa đá.

    Lần này Trương Vô Kỵ chỉ đặt một bàn tay phải vào bên cửa, theo đúng tâm pháp Càn khôn đại na di vừa luyện xong, chỉ hơi vận sức, phiến đá đã kèn kẹt chuyển động, hơi nghiêng người dùng chút sức nữa, cửa đá đã từ từ mở ra.

    Tiểu Chiêu cả mừng, nhảy cẫng lên, vỗ tay kêu hay, sợi xích sắt ở tay kêu leng keng một hồi. Trương Vô Kỵ nói:

    - Để ta giựt đứt dây xích cho cô nương một lần nữa xem sao.

    Tiểu Chiêu cười đáp:

    - Lần này chắc phải đứt!

    Trương Vô Kỵ cầm sợi dây xích, vận sức kéo ra hai bên; sợi dây chỉ doãng dài thêm chứ không đứt rời. Tiểu Chiêu kêu lên:

    - Ối chao, không hay rồi! Công tử càng kéo dài ra chừng nào, con càng bị bất tiện thêm chừng ấy.

    Trương Vô Kỵ lắc đầu:

    - Cái dây xích này quái dị thật! Chỉ e kéo doãng cả chục trượng cũng không đứt.

    Nguyên vị giáo chủ Minh giáo đời trước có nhặt được một cục vân thạch quái dị từ trên trời rơi xuống, trong có chứa chất liệu kim khí không giống các loại sắt thép dưới trái đất. Các tay thợ khéo của Nhuệ Kim kỳ liền đúc thử binh khí nhưng không được, bèn rèn thành sợi dây xích này. Trương Vô Kỵ thấy Tiểu Chiêu cúi đầu rầu rĩ, bèn an ủi nàng:

    - Cô nương yên tâm, cứ tin rằng thể nào rồi ta cũng sẽ mở được cái xích này cho cô nương. Chúng mình bị kẹt trong lòng núi thế này còn thoát ra được, sá gì hai sợi dây xích ấy.

    Chàng muốn tìm Viên Chân báo thù, quay trở lại cố đẩy hai tảng đá vạn cân kia, nhưng nó chỉ hơi lung lay chứ không mở ra được. Chàng lắc đầu, cùng Tiểu Chiêu trở lại lối cửa đá.

    Lúc đi qua rồi, chàng đẩy cánh cửa lại như cũ, thấy tảng đá này thực ra không phải là cánh cửa, mà là một phiến nham thạch tự nhiên, bên dưới chèn một trái cầu sắt rất lớn làm bản lề. Lâu năm, trái cầu bị gỉ, khối nham thạch khó bề chuyển dịch. Chàng nghĩ năm xưa khi xây dựng địa đạo này, Minh giáo phải sử dụng vô số nhân lực trong nhiều năm, tốn biết bao công phu, tâm huyết.

    Chàng cầm bản đồ đường hầm bí mật, theo đó mà đi, tuy khá ngoắt ngoéo nhưng không phí công đã thoát ra ngoài.

    Vừa ra khỏi đường hầm, ánh sáng chói lòa chiếu vào mặt, hai người nhất thời chưa mở mắt ra được. Một hồi lâu mới từ từ hé mắt ra, thấy băng tuyết khắp nơi, ánh nắng chiếu xuống tuyết hắt lên, nên mới chói mắt như thế.

    Tiểu Chiêu thổi tắt cây đuốc trên tay, đào một cái lỗ trên tuyết, chôn cây đuốc gỗ xuống đó, nói:

    - Đuốc ơi, đa tạ mi đã chiếu sáng cho Trương công tử và ta ra khỏi đường hầm. Thiếu mi thì bọn ta chả làm gì được cả.

    Trương Vô Kỵ cười ha hả, trong lòng rất sảng khoái, chợt nghĩ thầm: “Thế gian quá nhiều kẻ vong ân bội nghĩa, còn tiểu cô nương này đối với một cây củi còn như thế, ắt là người trung hậu trọng nghĩa”.

    Chàng quay nhìn Tiểu Chiêu mỉm cười, ánh sáng dưới tuyết hắt lên mặt nàng, làm lộ rõ nước da trắng trẻo, mịn màng như ngọc, bèn buột miệng khen:

    - Tiểu Chiêu, cô nương xinh quá!

    Tiểu Chiêu vui mừng, nói:

    - Trương công tử không nói dối đấy chứ?

    Trương Vô Kỵ nói:

    - Cô nương đừng giả trang què chân, lưng gù thành quái dị nữa, cứ thế này xinh biết mấy!

    Tiểu Chiêu nói:

    - Công tử bảo con không giả trang, con sẽ không giả trang nữa. Tiểu thư dù muốn giết con, con cũng không giả trang.

    Trương Vô Kỵ nói:

    - Đừng nói bậy! Cô nương tử tế như vậy, sao tiểu thư lại giết cô nương?

    Chàng lại ngắm Tiểu Chiêu lần nữa, thấy nàng da dẻ trắng hồng, sống mũi hơi cao hơn so với thiếu nữ thông thường, tròng mắt ẩn hiện màu xanh của biển cả, bèn nói:

    - Cô nương là dân bản địa Tây Vực thì phải? So với thiếu nữ ở Trung nguyên, xem ra có phần xinh đẹp hơn.

    Tiểu Chiêu hơi nhướn mày, nói:

    - Con chỉ mong mình được như thiếu nữ Trung nguyên thôi.

    Trương Vô Kỵ tới bên sườn dốc quan sát địa thế tứ phía, thì ra đang ở lưng chừng một ngọn núi. Khi chàng nằm trong cái túi vải do Thuyết Bất Đắc vác lên đỉnh Quang Minh, chàng đâu biết địa thế dọc đường, lúc này cũng chả hiểu mình đang ở chỗ nào. Đưa mắt nhìn ra thật xa, chàng thấy ở triền núi phía tây bắc có mấy hình người nằm bất động, tựa hồ đã chết. Chàng nói:

    - Mình tới đó coi thử.

    Trương Vô Kỵ cầm tay Tiểu Chiêu chạy về phía triền núi đó. Lúc này Cửu dương chân khí trong cơ thể chàng lưu chuyển như ý, tâm pháp Càn khôn đại na di đã luyện tới bậc thứ bảy, mỗi cử động của tay chân chàng người ngoài nhìn vào đều cho là sức người không thể làm nổi, tuy tay dắt Tiểu Chiêu mà đi nhanh như chim én.

    Đến gần, thấy bốn xác chết trên tuyết, máu me vung vãi trên tuyết trắng, xác người nào cũng có vết đao kiếm. Trong số đó, có ba người mặc sắc phục giáo đồ Minh giáo, còn một người là tăng nhân, hình như là đệ tử phái Thiếu Lâm. Trương Vô Kỵ lo lắng nói:

    - Nguy rồi! Mình bị kẹt trong đường hầm quá lâu, sáu đại môn phái đánh lên đỉnh Quang Minh rồi!

    Chàng sờ tâm khẩu bốn cái xác, đều lạnh ngắt, chứng tỏ chết đã nhiều giờ. Chàng vội nắm tay Tiểu Chiêu, theo dấu chân trên tuyết mà chạy lên. Chạy độ mươi trượng, lại thấy có bảy xác chết nằm trên tuyết, hình dạng đáng sợ.

    Trương Vô Kỵ rất bồn chồn, nói:

    - Không biết nhóm Dương Tiêu tiên sinh, Bất Hối muội muội thế nào rồi?

    Chàng chạy nhanh hơn, tựa hồ kéo Tiểu Chiêu cùng bay đi vậy. Qua một khúc quành, thấy có năm giáo đồ Minh giáo bị treo lên cây, đầu lộn ngược xuống đất, mặt mũi người nào cũng nhầy nhụa máu me, tựa hồ bị vật sắc nhọn cào nát. Tiểu Chiêu nói:

    - Họ bị dính “Hổ trảo thủ” của phái Hoa Sơn.

    Trương Vô Kỵ lấy làm lạ, hỏi:

    - Tiểu Chiêu, cô nương còn ít tuổi mà sao biết rộng thế? Ai dạy cho cô nương?

    Tuy miệng hỏi thế, nhưng trong bụng chàng đang canh cánh lo cho sự an nguy của mọi người trên đỉnh Quang Minh, không đợi Tiểu Chiêu trả lời đã lại nắm tay nàng chạy như bay lên núi. Dọc đường thấy người chết nằm la liệt, phần lớn là giáo đồ Minh giáo, nhưng đệ tử của sáu đại môn phái cũng không phải ít. Có lẽ trong thời gian một ngày đêm chàng kẹt trong đường hầm, sáu đại môn phái đã phát động mãnh công. Các nhân vật trọng yếu như Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu đều bị trọng thương nên Minh giáo không ai chỉ huy, lâm vào tình thế bất lợi, nhưng chúng giáo đồ vẫn dốc sức chiến đấu, không chịu khuất phục, thành thử đôi bên đều bị tổn thất nặng nề.

    Trương Vô Kỵ lên gần tới đỉnh núi, nghe tiếng binh khí va chạm dữ dội, lòng có phần nào yên tâm, nghĩ thầm: “Đánh nhau vẫn chưa xong, sáu đại môn phái chưa đánh được tới đại sảnh”, vội vàng chạy về phía có đánh nhau.

    Đột nhiên nghe tiếng gió vù vù, có hai mũi cương tiêu ném tới sau lưng, kèm theo tiếng người quát:

    - Ai đó? Đứng lại!

    Trương Vô Kỵ vẫn chạy, đưa tay phẩy ngược lại đằng sau một cái, hai mũi tên kia lập tức bay ngược lại, chỉ nghe một tiếng “Ối!” thảm thiết, rồi tiếng người ngã vật xuống đất. Trương Vô Kỵ kinh ngạc, quay đầu nhìn lại, thấy một tăng nhân mặc áo bào xám, hai mũi tên cắm ở vai phải của y. Chàng ngẩn người, không ngờ vừa rồi chỉ phẩy tay một cái, chỉ định đánh giạt hướng bay của mũi tên cho khỏi trúng người chàng, ai ngờ lực phất tay lại có uy lực ghê gớm đến thế. Chàng vội chạy tới, xuýt xoa nói:

    - Tại hạ lỡ tay khiến đại sư bị thương, áy náy quá!

    Rồi giơ tay nhổ hai mũi cương tiêu ra. Vai nhà sư Thiếu Lâm máu vọt ra, nhưng Vô Kỵ không ngờ y hung tợn, tung chân đá một cú, trúng vào bụng dưới chàng. Trương Vô Kỵ đứng gần y, không ngờ y đột ngột tấn công, còn đang ngẩn người thì đã thấy y bay văng ra xa, lưng đụng phải một thân cây, chân phải gãy lủng liểng, mồm hộc máu. Trương Vô Kỵ lúc này chân khí lưu chuyển trong cơ thể, hễ bị ngoại lực đánh vào là lập tức sinh ra lực phản kích, tương tự lần chấn gãy đùi Tĩnh Huyền, nhưng lực đạo bây giờ còn mạnh hơn lúc đó nhiều.

    Chàng thấy nhà sư bị trọng thương, lòng không an, vội chạy tới đỡ dậy, luôn miệng xin lỗi. Nhà sư kia hậm hực nhìn chàng, vừa tức vừa sợ, tuy muốn xuất chiêu tấn công, nhưng không còn hơi sức nữa.

    Bỗng nghe từ phía bên kia tường vọng ra ba tiếng ằng ặc, Trương Vô Kỵ không thể lo thêm cho nhà sư nữa, vội kéo Tiểu Chiêu chạy qua cổng lớn, xuyên qua hai sảnh đường, đến một cái sân lớn phía trước.

    Trên sân, người đứng đông nghịt, nhưng ở mé tây ít người hơn, mười người thì tám chín máu me lênh láng, kẻ ngồi người nằm, là phe Minh giáo. Mé đông người như kiến, chia thành sáu nhóm, xem ra sáu đại môn phái đã tề tựu đông đủ, thành thế bao vây phe Minh giáo.

    Trương Vô Kỵ liếc qua thấy Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Thuyết Bất Đắc, Bành hòa thượng cả bọn đều ngồi trong đám giáo đồ Minh giáo, xem ra cử động vẫn còn khó khăn lắm. Dương Bất Hối ngồi bên cạnh phụ thân.

    Ở giữa sân có hai người đang giao đấu, ai nấy chăm chú xem, nên Trương Vô Kỵ và Tiểu Chiêu đi vào, chẳng người nào lưu tâm cả.

    Trương Vô Kỵ thong thả lại gần, định thần nhìn kỹ, thấy hai người đang giao đấu đều tay không, chưởng phong kêu ù ù, uy lực bao trùm mấy trượng, hiển nhiên cả hai đều là cao thủ tuyệt đỉnh. Hai đối thủ xuất chiêu cực nhanh, đột nhiên bốn chưởng đụng nhau, lập tức cả hai cùng bất động, trong nháy mắt cảnh chuyển động kỳ ảo bỗng biến thành phút lặng ngắt như tờ. Mọi người đứng xem cùng thốt:

    - Hay thật!

    Trương Vô Kỵ nhìn rõ hai người thì trong lòng chấn động. Hán tử trung niên thân hình thấp nhỏ, khuôn mặt cương nghị, chính là Trương Tòng Khê của phái Võ Đang, còn đối thủ là một lão niên cao to, hói đầu, lông mày dài, trắng như tuyết, rủ xuống khóe mắt, mũi khoằm như mỏ chim ưng. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Không ngờ Minh giáo lại có cao thủ cỡ này, chẳng biết là ai vậy?”

    Bỗng từ đám người phái Hoa Sơn cất tiếng gọi:

    - Này lão Bạch Mi kia, mau chịu thua đi, làm sao lão địch nổi Trương tứ hiệp phái Võ Đang kia chứ?

    Trương Vô Kỵ nghe mấy chữ “Lão Bạch Mi” thì giật mình: “Ồ, thì ra người này… người này… chính là ông ngoại Bạch Mi Ưng Vương của ta!” Chàng chợt nảy sinh niềm trìu mến thiết tha, muốn chạy lên nhận người thân.

    Chỉ thấy trên đỉnh đầu Ân Thiên Chính và Trương Tòng Khê đều có hơi nóng bốc lên, hai người trong giây lát đã sử dụng tất cả chân lực nội gia bình sinh khổ luyện. Một người là giáo chủ Thiên Ưng giáo, một trong tứ đại hộ giáo pháp vương của Minh giáo. Một người là đệ tử đắc ý của Trương Tam Phong, một trong Võ Đang thất hiệp uy chấn thiên hạ; xem ra trận đấu sắp phân thắng bại.

    Người của Minh giáo cũng như của sáu đại môn phái ai cũng nín thở theo dõi, lo lắng cho người của phe mình, đều biết rằng cuộc đấu này không chỉ là uy danh của Minh giáo và phái Võ Đang mà còn là một cuộc thi chân lực giữa hai đại cao thủ, kẻ bại có thể mất mạng như chơi. Chỉ thấy lúc này hai người như hai bức tượng đá, ngay đến râu tóc và quần áo cũng không lay động chút nào.

    Ân Thiên Chính thần uy lẫm liệt, cặp mắt sáng như hai tia chớp. Trương Tòng Khê sử dụng yếu chỉ “dĩ dật đãi lao, dĩ tĩnh chế động”[85] trong tâm pháp của phái Võ Đang, thủ vệ cực kỳ nghiêm mật. Trương Tòng Khê biết Ân Thiên Chính lớn hơn chàng đến hai chục tuổi, nội lực tu luyện cao thâm hơn hai chục năm; song mình thì đang thời tráng kiện, sức lực dồi dào còn đối phương tuổi đã cao, thể chất suy vi, mình càng giữ được lâu chừng nào, càng có cơ thắng thế chừng đó. Đâu ngờ Ân Thiên Chính quả là một kỳ nhân hiếm có trong võ lâm, tuổi cao nhưng tinh lực chẳng kém thời trai trẻ, nội lực cứ như sóng biển dâng trào hết lớp này đến lớp khác, song chưởng dồn dập tấn công Trương Tòng Khê.

    Trương Vô Kỵ thoạt nhìn thấy Trương Tòng Khê và Ân Thiên Chính thì trong lòng mừng rỡ, nhưng lập tức vui hóa ra lo, một bên là ông ngoại mình, có tình huyết nhục, một bên là sư huynh của phụ thân, coi chàng chẳng khác nào con ruột. Năm xưa chàng bị trúng Huyền Minh thần chưởng, chư hiệp phái Võ Đang không ai tiếc nội công đã tận tâm kiệt lực trị thương cho chàng. Nếu một trong hai người bị thương hoặc chết, hẳn chàng sẽ ôm hận suốt đời.

    Trương Vô Kỵ hơi trầm ngâm, đang nghĩ cách chiết giải, bỗng nghe Ân Thiên Chính và Trương Tòng Khê cùng quát to, bốn chưởng phát lực, mỗi người bật lui sáu bảy bước.

    Trương Tòng Khê nói:

    - Ân lão tiền bối thần công trác tuyệt, bội phục, bội phục!

    Ân Thiên Chính nói, tiếng vang như chuông:

    - Công phu tu luyện nội gia của Trương huynh đệ siêu phàm nhập thánh, lão phu tự thẹn không bằng. Các hạ là sư huynh đồng môn của con rể lão phu, không lẽ hôm nay phải nhất quyết phân thắng bại hay sao?

    Trương Vô Kỵ nghe ông ngoại nhắc đến cha mình, nước mắt lập tức rưng rưng, trong bụng chỉ muốn kêu lên: “Thôi đừng đánh nữa, đừng đánh nữa!”

    Trương Tòng Khê nói:

    - Vừa rồi vãn bối đã phải lùi nhiều hơn một bước, đã thua nửa chiêu rồi.

    Nói đoạn cúi mình vái chào, ung dung lui ra.

    Đột nhiên từ trong phái Võ Đang có một hán tử chạy ra, chỉ Ân Thiên Chính giận dữ nói:

    - Lão họ Ân kia, lão không nhắc đến Trương ngũ ca của vãn bối thì thôi, hôm nay nhắc đến chỉ khiến người ta căm hận. Du tam ca và Trương ngũ ca hai người của chúng tôi đều bị hại bởi Thiên Ưng giáo của lão, thù này không báo thì Mạc Thanh Cốc làm sao còn dám mang ngoại hiệu Võ Đang thất hiệp?

    Nghe “roạt” một cái, trường kiếm đã rút khỏi vỏ, ánh nắng chiếu vào lấp lánh, giơ lên theo tư thế “Vạn nhạc triều tông”. Đây là tư thế khởi đầu của đệ tử phái Võ Đang trước khi động thủ với bậc trưởng bối. Mạc Thanh Cốc tuy lửa giận bừng bừng, nhưng vốn đã là một cao thủ có danh phận trong võ lâm, trước bao con mắt đổ dồn vào mình, nhất cử nhất động đâu dám thất lễ.

    Ân Thiên Chính thở dài, mặt thoáng lộ vẻ u buồn, chậm rãi nói:

    - Lão phu từ khi tiểu nữ qua đời, không muốn đụng đến đao kiếm nữa. Nhưng nếu tay không động thủ với chư hiệp Võ Đang thì không khỏi đại bất kính.

    Bèn chỉ vào một giáo đồ Minh giáo tay cầm thiết côn, nói:

    - Cho ta mượn cây gậy!

    Gã giáo đồ nâng cây thiết côn ngang mày, khom lưng cung kính dâng lên. Ân Thiên Chính tiếp lấy thiết côn, dùng hai tay bẻ một cái, cây gậy sắt gãy ngay làm đôi.

    Những người xung quanh đều “ồ” lên kinh ngạc, không ngờ ông già sau trận cửu chiến vừa rồi mà vẫn còn thần lực ghê gớm như vậy.

    Mạc Thanh Cốc biết Ân Thiên Chính sẽ không xuất chiêu trước, bèn vung trường kiếm sử chiêu “Bách điểu triều phụng”; chỉ thấy mũi kiếm rung động không ngừng, trong chớp mắt như có mấy chục mũi kiếm tấn công trung bàn đối phương. Chiêu này tuy lợi hại, song vẫn là chiêu thức trọng lễ nghĩa.

    Ân Thiên Chính tay trái cầm đoạn côn gãy, nói:

    - Mạc thất hiệp khỏi cần khách khí!

    Tay phải Ân Thiên Chính cầm đoạn côn gãy thứ hai liền chọc xiên tới.

    Đôi bên qua lại vài chiêu, mọi người đều rung động. Kiếm pháp của Mạc Thanh Cốc khinh linh, loang loáng ánh cầu vồng, vừa phiêu dật vừa ngưng trọng mỗi khi đánh ra thu về, đúng là phong cách của bậc danh gia. Còn hai đoạn thiết côn của Ân Thiên Chính vốn nặng nề chậm chạp, chiêu số cũng sơ sài tầm thường, đánh phía này một cái, đập phía kia một cái, chẳng ra bài bản gì hết, nhưng các nhân sĩ am hiểu thì biết ngay là lão già dùng lối “đại trí nhược ngu, đại xảo nhược chuyết”[86], thực ra là cảnh giới cực cao của võ học. Cước bộ của Ân Thiên Chính cũng di động rất thong thả, trong khi Mạc Thanh Cốc lúc vọt lên cao, khi rùn xuống thấp, lúc nhào sang đông, khi vút sang tây, trong thời gian uống hết một chén trà đã liên tiếp tung ra hơn sáu mươi chiêu sát thủ vô cùng lợi hại.

    Hai người đấu thêm mấy chục hiệp nữa, kiếm chiêu của Mạc Thanh Cốc càng lúc càng nhanh. Hai phái Côn Luân, Nga Mi đều lấy kiếm pháp làm chính, các đệ tử thấy thanh kiếm trong tay Mạc Thanh Cốc biến hóa tài tình như thế, trong bụng ai nấy thán phục: “Kiếm pháp phái Võ Đang quả nhiên danh bất hư truyền, hôm nay mới được một phen sáng mắt”. Song bất luận chàng đâm chém cách nào, cũng không tấn công lọt hai đoạn thiết côn nghiêm thủ của Ân Thiên Chính. Mạc Thanh Cốc nghĩ thầm: “Lão già này liên tiếp đánh bại ba cao thủ của phái Hoa Sơn, phái Thiếu Lâm, lại đấu nội lực với tứ ca, nay đấu với ta là người thứ năm, chắc chắn đã hao tổn nhiều chân lực, quả thật có lợi thế cho ta; nếu ta không thắng được thì còn gì thể diện của sư môn?”

    Chàng bèn hú một tiếng thanh thoát, kiếm pháp đột nhiên thay đổi, thanh trường kiếm như biến thành một sợi dây lưng, vừa nhẹ vừa mềm, lúc cong lúc thẳng, phiêu hốt bất định, chính là bảy mươi hai chiêu “Nhiễu chỉ nhu kiếm” của phái Võ Đang.

    Những người đứng xem đến chiêu thứ mười hai mười ba đều không nhịn nổi cùng thốt lên khen hay. Lúc này Ân Thiên Chính đã không còn dùng cách vụng về chống xảo diệu mà phải di động lẹ làng, thi triển khinh công lấy nhanh đánh nhanh. Đột nhiên trường kiếm của Mạc Thanh Cốc vụt đâm thẳng vào giữa ngực Ân Thiên Chính, đang đâm như thế, mũi kiếm bỗng rung động, cong đi, đâm chéo lên vai bên phải đối phương. Đường Nhiễu chỉ nhu kiếm này toàn dựa vào nội lực thâm hậu để uốn cong lưỡi kiếm, làm cho kiếm chiêu biến đổi khôn lường, địch nhân khó bề né tránh. Ân Thiên Chính chưa từng thấy thứ kiếm pháp này, vội hạ vai xuống tránh né, không ngờ thanh kiếm bật trở lại, đâm thẳng vào cánh tay bên trái. Ân Thiên Chính vươn tay phải ra, không hiểu bằng cách nào mà cánh tay dài thêm nửa thước, phất vào cổ tay Mạc Thanh Cốc, đoạt luôn thanh trường kiếm, đồng thời tay trái đã ấn vào huyệt Kiên Trinh.

    “Ưng trảo cầm nã thủ” của Bạch Mi Ưng Vương là tuyệt kỹ của võ lâm hơn trăm năm nay, thời nay không ai sánh kịp. Đầu vai của Mạc Thanh Cốc đã nằm trong lòng bàn tay Ân Thiên Chính, năm ngón tay của ông già chỉ cần vận kình bóp một cái là vai của đối phương sẽ nát như tương, tàn phế suốt đời. Chư hiệp phái Võ Đang cả kinh, muốn xông ra cứu đã không còn kịp nữa.

    Ân Thiên Chính thở dài, nói:

    - Một lần đã quá, thêm nữa làm chi?

    Ông buông vai Mạc Thanh Cốc ra, tay phải thu về, rút kiếm khỏi cánh tay trái, máu từ miệng vết đâm chảy ra ròng ròng. Ông ngưng thần nhìn thanh kiếm, nói:

    - Lão phu tung hoành nửa đời trong thiên hạ, chưa từng thua ai nửa chiêu thức. Trương Tam Phong hay thật, Trương chân nhân tài thật!

    Ông ca ngợi Trương Tam Phong đã sáng chế ra bảy mươi hai chiêu Nhiễu chỉ nhu kiếm thần diệu khôn lường, làm cho chính ông cũng không sao tránh nổi.

    Mạc Thanh Cốc đứng ngây ra tại chỗ, tuy thắng trước một chiêu nhưng lại không bị đối phương cuối hạ sát thủ đả thương mình, nên ngơ ngẩn một lát, rồi nói:

    - Đa tạ tiền bối thủ hạ lưu tình.

    Ân Thiên Chính không nói một lời, lẳng lặng trả kiếm cho Mạc Thanh Cốc. Mạc Thanh Cốc tinh thông kiếm pháp như thế, rốt cuộc lại bị đối phương đoạt mất binh khí, quá ư hổ thẹn, không dám nhận lại thanh kiếm, vội lui ra.

    Trương Vô Kỵ xé nhẹ vạt áo, đang định bước ra băng bó vết thương cho ông ngoại, bỗng thấy từ chỗ phái Võ Đang lại có một hán tử bước ra, râu đen dài tới ngực, chính là Tống Viễn Kiều đứng đầu Võ Đang thất hiệp. Tống Viễn Kiều nói:

    - Tại hạ xin băng tay cho lão tiền bối.

    Tống Viễn Kiều lấy thuốc trong bọc ra đắp lên vết thương cho Ân Thiên Chính, rồi lấy khăn buộc lại. Giáo chúng Thiên Ưng giáo và Minh giáo thấy vẻ mặt đường hoàng tử tế của Tống Viễn Kiều, lại nghĩ đây là người đứng đầu Võ Đang thất hiệp, quyết không khi nào công khai hạ độc người bên phe mình. Ân Thiên Chính nói, vẻ mặt không chút nghi ngờ:

    - Đa tạ!

    Trương Vô Kỵ cả mừng, nghĩ thầm: “Tống sư bá băng bó vết thương cho ông ngoại ta, chắc là vì cảm kích ông không giết Mạc thất thúc, đôi bên có thể hòa hảo với nhau”. Nào ngờ sau khi băng bó vết thương xong, Tống Viễn Kiều lùi lại một bước, buông tay áo, nói:

    - Tống mỗ xin lãnh giáo cao chiêu của lão tiền bối.

    Câu này thật là quá bất ngờ đối với Trương Vô Kỵ, khiến chàng phải thốt lên:

    - Tống đại hiệp, dùng xa luân chiến đánh một vị lão nhân là không công bằng!

    Câu đó nói ra khiến ai nấy cùng quay lại nhìn chàng thanh niên áo quần lam lũ. Trừ phái Nga Mi, một số rất ít người như Tống Thanh Thư, Ân Lê Đình, Dương Tiêu, Thuyết Bất Đắc, còn không ai biết chút gì về chàng, nên đều ngạc nhiên.

    Tống Viễn Kiều nói:

    - Vị tiểu bằng hữu nói vậy không sai. Oán thù riêng giữa Thiên Ưng giáo với phái Võ Đang, hôm nay tạm gác sang một bên. Hiện giờ là giây phút hệ trọng một mất một còn giữa sáu đại môn phái với Minh giáo, phái Võ Đang đứng ra thách đấu với Minh giáo cũng vì thế.

    Ân Thiên Chính đưa mắt lướt qua một vòng, thấy Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Bành hòa thượng cả bọn đều bị tê liệt bất động, các cao thủ của Thiên Ưng giáo và Ngũ Hành kỳ thì đều chết hoặc bị thương, chính con trai ông là Ân Dã Vương cũng đang hôn mê nằm kia, chưa biết sống chết thế nào, trong Thiên Ưng giáo lẫn Minh giáo, ngoại trừ ông ra, không còn ai đủ tài đương đầu với quyền chiêu kiếm pháp của Tống Viễn Kiều. Nhưng ông đã liên tiếp giao đấu với năm cao thủ, chân khí đâu còn như ban đầu, huống hồ cánh tay trái lại bị thương không nhẹ.

    Ân Thiên Chính còn đang suy nghĩ, bỗng nghe một lão già thấp bé trong phái Không Động lớn tiếng nói:

    - Ma giáo thua hẳn rồi, không chịu đầu hàng còn chờ gì nữa? Không Trí đại sư, chúng ta vào phá hủy bài vị của ba mươi ba đời giáo chủ Ma giáo thôi!

    Phương trượng Thiếu Lâm tự Không Văn đại sư ở lại trấn thủ bản tự tại Tung Sơn, lần này vây đánh đỉnh Quang Minh, đệ tử phái Thiếu Lâm do Không Trí đại sư cầm đầu. Các môn phái kính nể địa vị và danh vọng của phái Thiếu Lâm trong võ lâm, nên cử Không Trí đại sư làm người phát lệnh trong chiến dịch vây đánh đỉnh Quang Minh này.

    Không Trí chưa kịp trả lời, đã nghe một người của phái Hoa Sơn nói:

    - Cái gì mà đầu hàng với chả chờ đợi? Toàn bộ giáo đồ Ma giáo, hôm nay quyết không để một tên nào sống sót! Nhổ cỏ phải nhổ sạch cả rễ, nếu không sau này chúng lại nổi lên làm hại giang hồ. Lũ ma quỷ yêu quái kia, khôn hồn mau mau tự sát đi, để các ông đây khỏi bẩn tay.

    Ân Thiên Chính ngầm vận khí, thấy vết thương ở cánh tay sâu tới xương, cứ đau từng chập một. Ông vốn biết Tống Viễn Kiều theo học Trương Tam Phong lâu nhất, thâm đắc chân truyền của vị đại tông sư võ học; còn mình thì ngay khi tinh thần khí lực còn đầy đủ, đấu với y còn chưa biết ai thắng ai bại, nữa là lúc này? Nhưng các cao thủ của Minh giáo thì hoặc chết hoặc bị thương, chỉ còn một mình ông chủ trì đại cục, thôi đành liều cái mạng già này, mình chết không có gì ân hận, chỉ tiếc anh danh một đời hôm nay chấm dứt mà thôi.

    (còn tiếp)

    Nguồn: Ỷ Thiên Đồ Long Ký. Tiểu thuyết của Kim Dung - từng được dịch ra tiếng Việt là Cô gái Đồ Long. Đây là cuốn cuối cùng trong bộ tiểu thuyết Xạ điêu tam khúc. Hương Cảng Thương báo xuất bản lần đầu năm 1961 tại Hồng Kông. Lê Khánh Trường & Lê Việt Anh dịch từ nguyên tác. NXB Văn học, 2002.

    Mục lục: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54

    Bài viết liên quan

  • Nam Đế Vạn Xuân
    • Nam Đế Vạn Xuân

      Với hơn 500 trang, 15 hồi gay cấn, sinh động trong từng câu thoại của các nhân vật lịch sử, Tiểu thuyết Lịch sử Nam Đế Vạn Xuân nằm trong bộ Tiểu thuyết dài tập Vương triều tiền Lý của Nhà văn Phùng Văn Khai. Nam Đế Vạn Xuân tái hiện một cách sinh động lịch sử nước nhà xoay quanh triều đại của nhà nước Vạn Xuân (544-602) giúp chúng ta hiểu và tự hào hơn về lịch sử đánh giặc hào hùng của dân tộc. Với bộ nhân vật lịch sử đồ sộ của cả ta lẫn địch như: Lý Nam Đế, Tinh Thiều, Phạm Tu, Triệu Túc, Triệu Quang Phục, Phùng Thanh Hòa… hay Lương Vũ Đế, Vũ lâm hầu Tiêu Tư, Dương Phiêu, Lý Tắc… tạo nên rất nhiều tình tiết móc ngoặc, những cuộc đấu trí gay cấn hay những lời thoại sinh động của từng nhân vật. Nam Đế Vạn Xuân như một con tàu thời gian đưa ta ngược trở về từng quãng của lịch sử cách đây gần 1500 năm từ khi Lý Bí tu tập tại chùa Cổ Pháp đến thời điểm làm Giám quân ở Đức Châu và cuối cùng là đuổi giặc Lương lên ngôi tại điện Vạn Thọ. Đó cũng là lần đầu tiên Việt Nam có hoàng đế và niên hiệu Thiên Đức là niên hiệu riêng đầu tiên để chứng tỏ nước ta đã giành lại độc lập từ tay Trung Quốc.

    Tìm kiếm

    Lượt truy cập

    • Tổng truy cập57,861,460

    Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

       

      Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

      *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

    Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

      WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

      Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

      The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

      Enjoy life, enjoy Arita experience!