Tìm kiếm
Lượt truy cập
- Tổng truy cập57,865,905
Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam
Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.
*Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...
Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.
WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)
Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.
The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.
Enjoy life, enjoy Arita experience!
Đọc nhiều nhất
- Phạm Hổ - Thơ viết cho nhi đồng
- Người của giang hồ (5): Lâm Chín ngón
- Thuật quan sát người (4)
- Người của giang hồ (11): Hải bánh
- Người của giang hồ (8): Huỳnh Tỳ
- Thuật quan sát người (2)
- Hoàng hôn của những thần tượng
- Vài nét về tục Cúng Mụ, đầy tháng, thôi nôi
- Vài tư liệu về Tục thờ Thánh Mẫu
- Chùm thơ về Tây Nguyên
Tiểu thuyết
Trương Vô Kỵ nghe câu nói tàn ác ấy của Chu Cửu Chân thì mắt tối sầm lại, như muốn ngất đi, loáng thoáng nghe Chu Trường Linh đáp:
- Phen này chúng ta dùng xảo kế lừa gạt nó, dụ nó nói ra chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, kể ra cũng có điều không phải. Thằng bé ấy cũng chẳng phải đứa xấu, sau khi giết Tạ Tốn, lấy được thanh đao Đồ Long rồi, chỉ cần chọc mù hai mắt nó, bỏ lại Băng Hỏa đảo là được.
Võ Liệt tán thưởng:
- Chu đại ca quả thật tâm địa nhân thiện, không để mất gia phong hiệp nghĩa.
Chu Trường Linh thở dài:
- Nước cờ này của huynh đệ ta quả thật vạn bất đắc dĩ. Võ nhị đệ, sau khi ra khơi, thuyền của đệ phải theo sau thuyền của huynh xa xa một chút, đi gần quá tên tiểu tử ấy sinh nghi, mà đi cách xa quá sợ mất liên lạc. Các tài công trên thuyền phải hết sức chú ý điều đó mới được.
Võ Liệt nói:
- Vâng, Chu đại ca tính toán mọi việc thật chu đáo.
Trương Vô Kỵ trong bụng rối như tơ vò, tự nhủ: “Mình không hề thổ lộ thân phận, làm sao bọn họ nhận biết được kia chứ? Ừ, hay là hôm mình ra sức chống trả Vệ Bích và hai nàng Chu, Võ vây đánh, mình đã sử dụng tâm pháp của võ công phái Võ Đang; Chu bá bá kiến văn rộng lớn nên đã nhận biết lai lịch của mình? Ông ta biết cha mẹ mình thà chết không tiết lộ nơi ở của Tạ Tốn, nếu dùng vũ lực, quyết không thể ép mình nói ra chân tướng; bởi thế đã làm giả bức tranh, thiêu đốt sơn trang, lại dùng khổ nhục kế khiến mình cảm động. Ông ta không cần hỏi mình câu nào, chính mình lại ngỏ lời cầu xin ông ta đưa đi Băng Hỏa đảo. Chu Trường Linh ơi Chu Trường Linh, gian kế của ngươi quả là nham hiểm hết chỗ nói!”
*
Lúc này Chu Trường Linh và Võ Liệt bàn sang cách thức chuẩn bị đi Sơn Đông để ra khơi. Trương Vô Kỵ không dám nghe thêm, bèn nín thở, rón rén từng bước, mỗi bước lại lắng nghe, thấy trong nhà không có động tĩnh gì, mới bước đi tiếp. Cậu biết Chu Trường Linh và Võ Liệt võ công cao siêu, chỉ cần cậu sơ sảy một chút, giẫm trúng một cành cây khô là lập tức bị họ phát giác ngay. Sau khi dò dẫm hơn ba chục bước, cách căn nhà hơn một chục trượng, cậu mới rảo bước.
Trương Vô Kỵ cắm đầu rảo bước, không cần chọn đường, cứ nhắm hướng rừng sâu trên dốc núi mà đi, càng đi càng lên cao, bước chân nhanh dần, cuối cùng phóng chạy như bay, hơn một canh giờ vẫn chưa dám dừng nghỉ. Trốn đi từ lúc nửa đêm, đến tờ mờ sáng thì thấy mình đang ở trong một cánh rừng trên đỉnh núi tuyết. Cậu ngoảnh lại xem Chu Trường Linh có đuổi theo hay không, vừa quay lại thì bất giác than thầm, vì mình để lại dấu chân dài dằng dặc trên mặt tuyết. Tây Vực trời lạnh giá, tuy đã sang xuân nhưng tuyết vẫn đọng trên đỉnh núi chưa tan. Cậu bỏ chạy thục mạng, ra sức đi lên đỉnh núi, nào ngờ để lộ hết đường đi nước bước của mình thế kia.
Lúc đó từ phía trước văng vẳng tiếng sói tru, nghe thật ghê rợn. Trương Vô Kỵ leo lên một mỏm đá nhìn xuống, thấy sườn núi đối diện có bảy tám con sói lớn màu xám đang ngẩng đầu hướng về phía cậu mà nhe răng múa vuốt, hiển nhiên muốn xông tới cắn xé, có điều giữa đôi bên là một vực sâu vạn trượng không nhìn thấy đáy, chúng chẳng thể vượt qua. Trương Vô Kỵ ngoảnh lại sau lưng, tim giật thót một cái: trên sườn núi có năm bóng đen đang thong thả di chuyển về phía cậu, chính là người của Chu, Võ hai nhà. Lúc này còn cách xa, tưởng đâu năm người kia đi chậm, kỳ thực họ đi nhanh như gió, xem chừng không đầy một canh giờ nữa là sẽ đuổi tới đây.
Trương Vô Kỵ cố trấn tĩnh, suy tính: “Ta thà để cho lũ sói đói xé xác ăn thịt, chứ không để mình rơi vào tay bọn kia cho chúng hành hạ”. Cậu nghĩ, mình một lòng si mê kính trọng Chu Cửu Chân, nào ngờ nàng thiếu nữ xinh đẹp như tiên mà tâm địa lại như rắn rết. Cậu vừa hổ thẹn, vừa đau lòng, vội chạy thẳng vào rừng sâu.
Trong rừng sâu cỏ mọc cao ngang lưng, tuy cũng có tuyết đóng, nhưng dấu chân không dễ thấy được. Cậu chạy một hồi, cả tâm trí lẫn thể xác cùng mệt mỏi, chất hàn độc trong người đột nhiên lại phát tác, hai chân mỏi nhừ không thể đi thêm nữa, cậu bèn chui vào một bụi cỏ dày, nhặt được một cục đá nhọn thủ sẵn trong tay, định bụng nếu mình bị bọn Chu Trường Linh kia tìm thấy thì sẽ lấy cục đá đập vào huyệt Thái Dương tự sát.
Trương Vô Kỵ nhớ lại mọi việc trong hơn hai tháng qua, từ ngày trú nhờ ở Chu gia trang, càng nghĩ càng chua chát: “Bọn người phái Không Động, phái Hoa Sơn, phái Côn Luân toàn lấy oán báo ân, ta cũng chẳng để bụng, riêng với Chu Cửu Chân ta thành tâm như thế, vậy mà… Ôi, mẫu thân ta lúc lâm chung đã dặn dò ta điều gì nhỉ? Sao ta lại quên biến lời dặn dò đó?”
Câu nói phút lâm chung của Ân Tố Tố lúc này vang lên rõ từng lời bên tai cậu: “Hài nhi, bao giờ lớn lên, phải đề phòng nữ nhân lừa dối con, nữ nhân càng đẹp càng giỏi lừa người”. Nước mắt rưng rưng, cảnh vật trước mặt cậu nhòe đi: “Mẫu thân ta lúc nói câu này, dao đã cắm sâu vào ngực. Mẫu thân cố nhịn đau dặn dò ta, thế mà ta lại không ghi khắc những lời huyết lệ ấy trong lòng. Giả dụ ta không biết cách tự giải huyệt, không hay biết mưu đồ khôn khéo của bọn Chu Trường Linh, hẳn là ta sẽ đưa chúng tới Băng Hỏa đảo, làm nguy hại cho tính mạng của nghĩa phụ”.
Lòng cậu đã quyết, đầu óc tỉnh táo, bây giờ đã nhận biết rõ ràng mưu đồ của cha con Chu Trường Linh: Khi Chu Trường Linh đoán biết cậu là con của Trương Thúy Sơn, hắn liền ra tay đánh chết bầy chó dữ, tát con gái, để Trương Vô Kỵ tin rằng ông ta là hiệp sĩ thị phi phân minh, nhân nghĩa hơn người. Còn việc hắn đốt cháy tòa sơn trang hoa lệ, tuy đáng tiếc thật, nhưng so với thanh bảo đao Đồ Long “võ lâm chí tôn” thì đâu có đáng gì. Kẻ hành sự mẫn tiệp quả đoán như ông ta thật là đáng sợ.
Trương Vô Kỵ lại nghĩ: “Hồi ta ở trên đảo, ngày ngày thấy nghĩa phụ ôm thanh đao Đồ Long thẫn thờ suy nghĩ, suốt mười năm trời vẫn không tìm ra bí mật của thanh đao. Nghĩa phụ tuy thông minh, song trực tính. Lão Chu Trường Linh này cơ trí hơn người, lắm mưu nhiều kế hơn hẳn nghĩa phụ ta, một khi hắn lấy được thanh đao, chắc hắn sẽ tìm ra…” Đang miên man suy nghĩ như thế, bỗng nghe tiếng chân, Chu Trường Linh và Võ Liệt đã tới gần.
Võ Liệt nói:
- Tên tiểu tử ấy chắc là ẩn náu trong cánh rừng này, nó không chạy xa hơn đâu…
Chu Trường Linh vội ngắt lời Võ Liệt:
- Ôi, chả biết Cửu Chân nói năng thất lễ thế nào, khiến Trương huynh đệ giận dỗi. Ta thật lo lắng, cậu ấy tuổi còn nhỏ, trên đỉnh núi đầy băng tuyết thế này, lỡ gặp chuyện gì, dù ta dù thịt nát xương tan cũng không chuộc được tội lỗi với Trương ân công.
Mấy câu nói giả dối, tự trách mình và ra vẻ lo lắng cho người khác, Trương Vô Kỵ nghe mà rùng mình, nghĩ thầm: “Lão ta vẫn còn nuôi ý đồ định dùng lời lẽ ngon ngọt lừa dối ta”.
Chỉ thấy Chu, Võ hai người cầm gậy, khua khua từng đám cỏ tìm kiếm; Trương Vô Kỵ cố nép người lại, không dám cử động, may mà cánh rừng này rất rộng, khó bề sục sạo hết mọi chỗ. Chẳng mấy chốc Vệ Bích và “Tuyết Lĩnh Song Chu” cũng đến. Năm người khua kiếm gạt cỏ cả nửa ngày vẫn không tìm ra, cả bọn đều mệt, ngồi nghỉ trên một tảng đá. Kỳ thực chỗ họ ngồi chỉ cách Trương Vô Kỵ chừng ba trượng, nhưng rừng rậm cỏ cao đã che lấp thân hình cậu.
Chu Trường Linh nghĩ ngợi một lát, rồi đột nhiên lớn tiếng quát:
- Cửu Chân, tại sao ngươi đắc tội với Vô Kỵ huynh đệ, để đến nỗi cậu ấy nửa đêm bỏ đi không nói một lời?
Chu Cửu Chân ngẩn người, Chu Trường Linh liền nháy mắt với con. Trương Vô Kỵ nằm phục trong bụi cỏ, song đã nhìn rõ cái nháy mắt đó.
Chu Cửu Chân hiểu ý, nói to:
- Con chỉ đùa cậu ấy một chút thôi! Điểm huyệt chơi, ai ngờ cậu ấy lại tưởng là thật.
Rồi nàng ta cất tiếng gọi to:
- Vô Kỵ đệ, Vô Kỵ đệ, hãy mau ra đây để tỷ tỷ chuộc lỗi nào!
Tiếng gọi to, nhưng nghe vẫn dịu dàng, ngọt ngào. Gọi một hồi không thấy động tĩnh gì, nàng ta đột nhiên khóc òa lên, nói:
- Cha, cha đừng đánh con, đừng đánh con, con đâu có cố ý đắc tội với Vô Kỵ đệ!
Chu Trường Linh giơ tay vỗ đồm độp vào đùi mình, còn mồm lớn tiếng quát mắng. Chu Cửu Chân không ngớt kêu khóc thảm thiết, tựa hồ bị cha đánh đau lắm không bằng. Võ Liệt, Võ Thanh Anh và Vệ Bích ba người đứng bên cạnh bưng miệng cười.
Trương Vô Kỵ nhìn cảnh cha con Chu Trường Linh đóng kịch, thản nhiên nghĩ thầm: “May mà ta nhìn rõ thần sắc của cha con họ, nếu không, chỉ cần nghe giọng rên la thảm thiết của nàng, hẳn ta đã mềm lòng chui ra rồi”.
Cha con Chu Trường Linh đoán chắc Trương Vô Kỵ chỉ nấp trong cánh rừng này, cha cứ mắng chửi, con cứ kêu khóc, giọng mỗi lúc một thống thiết thêm. Trương Vô Kỵ lấy hai tay bịt tai lại, nhưng thanh âm kia cứ từng đợt từng đợt lọt vào tai. Cậu hết chịu nổi, bực quá, liền bật dậy, nhảy ra, kêu lên:
- Các người đừng có giở trò quỷ, chẳng lừa nổi ta nữa đâu.
Bọn Chu Trường Linh năm người nhất tề reo hò:
- Đây rồi!
Trương Vô Kỵ gọi:
- Cửu Chân tỷ tỷ!
Rồi cắm đầu xuyên rừng mà chạy, Chu Trường Linh cùng Võ Liệt phi thân đuổi theo.
Trương Vô Kỵ đã quyết ý chết nên không do dự lao thẳng về phía vực sâu vạn trượng. Khinh công của Chu Trường Linh vượt xa Vô Kỵ nên, khi cậu tới bờ vực, thì ông ta đã đuổi kịp, giơ tay chộp lấy cậu.
Trương Vô Kỵ thấy lưng đau nhói, năm ngón tay phải của Chu Trường Linh đã nắm chặt sống lưng cậu, nhưng chân cậu đạp hẫng vào chỗ trống không, nửa thân hình lơ lửng trên vực sâu. Chân trái Vô Kỵ lại đạp tới, cả người nhào về phía trước.
Chu Trường Linh không ngờ Trương Vô Kỵ lại nhảy xuống vực tự tận, khiến cho ông ta cũng bị kéo theo, cả hai cùng rơi xuống. Với mấy chục năm tu luyện võ công, nếu ông ta lập tức buông tay, lộn ngược trở lên thì có thể bảo toàn tính mạng. Nhưng hắn biết rằng chỉ buông tay ra một cái, chắc chắn sẽ không còn cơ hội đoạt được thanh bảo đao Đồ Long “võ lâm chí tôn” nữa, bao nhiêu suy tính trù liệu khổ công trong hơn hai tháng qua sẽ chẳng khác gì tòa sơn trang hoa lệ đã hóa thành tro bụi.
Trong phút Chu Trường Linh do dự, Trương Vô Kỵ rơi xuống vực rất nhanh. Ông ta kêu lên:
- Nguy rồi!
Chu Trường Linh với tay trái lại phía sau, cho Võ Liệt vừa chạy tới nắm lấy, nhưng vẫn còn cách xa cả thước, còn tay phải túm lưng Trương Vô Kỵ thì không chịu buông ra.
Hai người từ trên vách núi rơi xuống vực sâu muôn trượng, nghe tiếng kêu la của Võ Liệt, Chu Cửu Chân từ trên vọng xuống, trong giây lát đã không còn nghe thấy gì nữa. Hai người rơi xuyên qua lớp sương mù lãng đãng trong khe núi, thẳng xuống đáy vực.
Chu Trường Linh một đời trải qua vô vàn sóng gió, lúc lâm nguy vẫn bình tĩnh, nghe tiếng gió ù ù bên tai, thân mình rơi thẳng xuống, mỗi lúc gặp cành cây mọc chìa ra từ vách đá, ông ta đều giơ tay chộp, mấy lần còn cách hàng thước, mãi sau mới chộp trúng một cành. Nhưng lực rơi của hai người quá nặng, cành cây chịu sao nổi, “rắc” một cái, một cành tùng to bằng bắp tay gãy rời. Nhưng nhờ thế mà đà rơi chậm lại, Chu Trường Linh có được chỗ mượn lực, hai chân giơ ra khoèo lại, dùng chiêu “Ô long giảo trụ” quặp chặt vào thân cây tùng, kéo Trương Vô Kỵ đặt trên cây, chỉ sợ cậu lại nhảy xuống vực, nên một tay ông ta vẫn giữ chặt không buông.
Trương Vô Kỵ thấy mình vẫn không thoát khỏi tay ông ta, thì hết sức thất vọng, hậm hực nói:
- Chu bá bá, dẫu có hành hạ tiểu điệt tới mức nào, cũng đừng hòng buộc tiểu điệt dẫn đi tìm nghĩa phụ!
Chu Trường Linh xoay người ngồi vững trên cây rồi mới ngẩng đầu lên, dĩ nhiên không thấy bọn Chu Cửu Chân, tiếng gọi cũng không nghe được nữa, tuy có tài cao gan lớn, nhưng việc thoát chết vừa rồi khi nghĩ lại cũng không khỏi rùng mình, vã mồ hôi lạnh. Ông ta định thần rồi, cười nói:
- Tiểu huynh đệ, cậu nói gì ta hoàn toàn không hiểu vậy? Cậu chớ nên nghĩ lung tung.
Trương Vô Kỵ nói:
- Mưu gian của bá bá, tiểu điệt biết tỏng rồi, chẳng còn dùng được đâu. Dù có ép tiểu điệt đi Băng Hỏa đảo, tiểu điệt cứ chỉ đường lung tung, tất cả bỏ xác trên biển, bá bá tưởng tiểu điệt không dám làm chăng?
Chu Trường Linh nghĩ lời đó là thực tình, lúc này cứ phải dịu ngọt với Trương Vô Kỵ, sau này sẽ để con gái mình đối phó với cậu, may ra có cách hay. Ông ta nhìn quanh, trèo lên trên kia thì không thể, bên dưới là vực sâu không đáy, mà có xuống tới đáy cũng không có đường ra, chỉ còn cách độc nhất là men theo vách núi xiên xiên mà từ từ bò ra ngoài. Ông ta bèn nói với Trương Vô Kỵ:
- Tiểu huynh đệ, cậu chớ nên nghi ngờ lung tung như thế. Nhất định ta sẽ không ép cậu dẫn đi tìm Tạ đại hiệp. Nếu dám sai lời, họ Chu ta sẽ bị hàng vạn mũi tên cắm vào thân, chết mất xác.
Chu Trường Linh thề độc như thế cũng là thật tình, vì nghĩ thầm một khi Trương Vô Kỵ đã thà chết, thì dù có ép cách nào cũng vô ích, chỉ còn cách dụ dỗ sao cho cậu tình nguyện mới xong.
Trương Vô Kỵ nghe ông ta thề độc, trong bụng cũng dịu đi. Chu Trường Linh nói:
- Hai người mình từ từ bò dần ra, cậu đừng có nhảy xuống, nghe chưa?
Trương Vô Kỵ nói:
- Nếu bá bá không cưỡng ép, tội gì tiểu điệt phải tự tận?
Chu Trường Linh gật đầu, lấy ra con dao găm, lột vỏ cây tết thành một sợi dây, hai đầu buộc vào lưng mình với Trương Vô Kỵ, rồi hai người men theo vách núi tuyết mà bò về phía có ánh nắng.
Vách núi vốn đã dốc, lại thêm băng tuyết đóng cứng nên rất trơn trượt. Trương Vô Kỵ hai lần tuột xuống đều nhờ Chu Trường Linh kéo lại mới không lăn xuống vực sâu. Song Trương Vô Kỵ trong bụng chẳng hề cảm kích, nghĩ thầm: “Chẳng qua lão ta nghĩ tới thanh đao Đồ Long, làm gì có thực tâm cứu ta?”
Hai người bò một hồi, đầu gối bị băng tuyết cào rách chảy cả máu, cuối cùng tới được chỗ không dốc lắm, hai người đứng lên được, chầm chậm từng bước một. Qua vách núi trông như bức bình phong ấy, Chu Trường Linh luôn miệng kêu khổ, không hiểu cao thấp thế nào.
Trước mắt là mây mù mênh mông, không thấy lối đi, hai người đang ở trên một bình đài rất cao, ba bề trống không. Bình đài này phải rộng đến hơn một chục trượng vuông, nhưng nhô ra giữa không trung, lên tiếp không được mà xuống cũng chẳng xong, thật đúng vào chỗ chết. Trên mặt bình đài chỉ toàn băng tuyết trắng xóa, không cây cỏ, cũng không dã thú.
Trương Vô Kỵ lại vui mừng, cười nói:
- Chu bá bá, bá bá ra sức mưu tính, rốt cuộc lại tới cái bình đài ở lưng chừng trời này, dù bây giờ lấy được thanh đao Đồ Long, phỏng có ích gì?
Chu Trường Linh quát:
- Đừng nói nhăng nói cuội!
Ông ta ngồi xếp bằng, ăn hai vốc tuyết, vận khí một hồi, nghĩ bụng: “Bây giờ tuy mệt, nhưng chưa kiệt sức. Nếu ở đây nhịn đói thêm một ngày, e rằng khó bề thoát ra”, liền đứng dậy, nói:
- Đường lên phía trước cụt rồi, chúng ta quay trở lại tìm lối khác.
Trương Vô Kỵ nói:
- Tiểu điệt lại cảm thấy ở đây rất thích, quay lại làm gì chứ?
Chu Trường Linh tức giận nói:
- Ở đây đâu có cái gì ăn mà thích?
Trương Vô Kỵ cười, đáp:
- Không có thức ăn thông thường, mình tu tiên luyện đạo càng hay chứ sao.
Chu Trường Linh cả giận trong lòng, nhưng biết giờ mà cưỡng ép thì không chừng Vô Kỵ lại nhảy xuống vực, đành nói:
- Được, cậu cứ ngồi nghỉ một lát, để ta tìm lối ra, nếu thấy sẽ quay lại đón cậu. Đừng có ra sát mép đá, cẩn thận kẻo ngã xuống vực đó.
Trương Vô Kỵ nói:
- Việc sống chết mất còn của tiểu điệt, sao bá bá lo quá vậy? Lúc này mà bá bá còn mơ tưởng tiểu điệt đưa bá bá đi Băng Hỏa đảo ư, bá bá hãy quên chuyện đó đi thì hơn.
Chu Trường Linh không trả lời, theo đường cũ quay trở lại đến chỗ cây tùng, ông ta bò sang bên trái tìm đường, chỗ này vách núi cheo leo hung hiểm, nhưng vì không vướng Trương Vô Kỵ nên ông ta bò qua nhanh, lúc bò lúc đi, độ nửa canh giờ thì tới một mỏm đá nhô ra ngoài. Phía trước lại cụt đường, Chu Trường Linh thở dài, thừ người hồi lâu, mới buồn bã trở lại cái bình đài cũ.
Trương Vô Kỵ không cần hỏi, nhìn mặt ông ta là cũng biết không có lối ra, nghĩ thầm: “Ta trúng phải Huyền Minh thần chưởng, chất âm độc khó trừ, bấm đốt ngón tay xem ra thọ mệnh đã hết, chết ở chỗ nào cũng thế thôi. Còn ông ta tự dưng có phúc không hưởng, mơ tưởng làm bậc chí tôn trong võ lâm, để bị chết đói như ta giữa chốn băng tuyết này, thật đáng thương”.
Ban đầu cậu căm ghét Chu Trường Linh gian ngoa xảo quyệt, sau khi thoát hiểm khỏi rơi xuống vực, cậu còn châm chọc ông ta mấy câu; bây giờ thấy hết đường sống, Chu Trường Linh cúi đầu ủ rũ, thì cậu lại thương hại ông ta, bèn ôn tồn nói:
- Chu bá bá, bá bá nhiều tuổi rồi, vinh hoa phú quý đều đã hưởng, giờ có chết cũng đâu tiếc, bá bá chả nên quá khổ sở như thế.
Chu Trường Linh sở dĩ tới giờ còn nhẫn nhịn Trương Vô Kỵ, vì ông ta vẫn hi vọng cuối cùng sẽ làm cho cậu mềm lòng, dẫn ông ta đi Băng Hỏa đảo, lúc này thấy đã hết đường sống, bị lâm vào tuyệt cảnh thế này toàn là do tên tiểu tử kia mà ra, thử hỏi bảo ông ta làm sao nuốt cho xuôi nỗi oán giận này? Hai mắt ông ta như nảy lửa, hầm hầm nhìn Trương Vô Kỵ.
Trương Vô Kỵ thấy vẻ mặt vốn dĩ ôn hòa phúc hậu của Chu Trường Linh phút chốc trở nên hung ác như dã thú, thì cả sợ kêu lên một tiếng, đứng bật dậy bỏ chạy. Chu Trường Linh quát:
- Ở đây còn đường cho mi chạy trốn sao?
Chu Trường Linh giơ tay chộp vào lưng Vô Kỵ, định hành hạ cậu một phen cho nếm đủ mùi khổ ải rồi mới chết.
Trương Vô Kỵ lao về đằng trước, thấy vách núi bên trái có chỗ tối đen, hình như là một cái hang, chẳng nghĩ ngợi gì hết liền chui luôn vào đó. Soạt một tiếng, ống quần cậu bị Chu Trường Linh xé rách, da đùi bị ngón tay ông ta cào xước. Trương Vô Kỵ lật đật vội chuồi vào hang, đột nhiên “bịch” một cái, trán va phải đá, mắt nổ đom đóm. Vô Kỵ biết rằng lúc này Chu Trường Linh đã trở mặt, bất cứ thủ đoạn tàn ác nào cũng có thể sử dụng, nên trong cơn hoảng hốt, cậu cứ liều mạng chui sâu vào trong, còn việc chui vào cái hang tối om om, cũng là hãm vào tuyệt địa, không sao thoát khỏi độc thủ của đối phương thì cậu chẳng kịp nghĩ đến. May sao cái hang này càng vào sâu càng hẹp, sau khi bò hơn chục trượng, chỉ mình cậu có thể vào lọt chứ Chu Trường Linh thì không.
Trương Vô Kỵ trườn thêm vài trượng, bỗng thấy phía trước có ánh sáng, trong lòng cả mừng, tay chân cùng xoải cho nhanh. Ở phía sau Chu Trường Linh vừa tức giận, vừa gấp gáp, nói:
- Ta không hại mi đâu, đừng bò đi nữa.
Trương Vô Kỵ mặc xác hắn.
Chu Trường Linh vận nội lực, giơ tay đánh mạnh vào vách đá, đá núi rắn lạ thường, chưởng đánh vào chỉ khiến lòng bàn tay đau nhói chứ vách đá chẳng hề hấn gì. Ông ta rút cây đoản đao, định xẻ rộng lối để bò, nhưng đào được vài nhát thì cây đoản đao bằng đồng xanh gãy đôi. Chu Trường Linh nổi cơn thịnh nộ, vận kình ra hai vai, trườn lên phía trước, thân hình quả nhiên tiến thêm được hơn một thước, nhưng không thể vào sâu chút nào nữa, đá cứng ép vào ngực và lưng khiến hắn rất khó thở.
Tức ngực khó thở, Chu Trường Linh đành trườn lùi, nào ngờ thân thể đã bị kẹt cứng trong khe đá, tiến lên chẳng được, mà lùi lại cũng không xong. Lúc này hồn xiêu phách lạc, Chu Trường Linh dùng hết sức bình sinh đẩy mạnh vai vào vách đá, thân hình mới lùi lại được hơn một thước, cảm thấy ngực đau nhức ghê gớm, hóa ra bị gãy một chiếc xương sườn.
Hồi 16: Tu luyện thành thục Cửu Dương thần công
5 / 5 ( 2 bình chọn )
Trương Vô Kỵ bò tiếp vào cái hang hẹp thêm vài trượng, thấy phía trước càng lúc càng sáng hơn, bò thêm một đoạn, đột nhiên ánh nắng lóa mắt, cậu nhắm mắt định thần, khi mở mắt ra thì thấy phía trước là một thung lũng xanh tươi, cây cỏ hoa lá xen nhau đủ màu.
Cậu lớn tiếng reo mừng, từ trong hang bò ra. Cái hang này cao cách mặt đất chỉ hơn một trượng, khẽ nhảy là xuống tới nơi. Chân cậu đạp lên cỏ mượt như nhung, mũi ngửi mùi hoa thơm thoang thoảng, tai nghe chim hót ríu rít, mắt nhìn trái cây trĩu cành, đâu ngờ đằng sau cái hang hẹp tối om kia lại có một vùng phong cảnh thần tiên thế này. Giờ đây Trương Vô Kỵ đã quên vết thương đau đớn, chạy tung tăng một mạch đến hơn hai dặm mới gặp một ngọn núi cao chắn lại. Cậu đưa mắt nhìn tứ phía, thấy vây quanh thung lũng là núi cao trập trùng, tựa hồ thời xa xưa nơi đây chưa từng có vết chân người. Các đỉnh núi tuyết cao chọc trời, những vách núi cheo leo hiểm trở, quyết chẳng thể leo lên leo xuống.
Trương Vô Kỵ vô cùng sung sướng. Có bảy tám con sơn dương đang gặm cỏ, chúng thấy cậu tới gần mà chẳng hề sợ hãi chạy đi, trên cây có hàng chục con khỉ nhảy nhót chơi đùa, xem ra các loài hổ báo thân thể nặng nề đều không dám vượt các ngọn núi hiểm trở tới đây. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Kể ra ông Trời đãi mình cũng không bạc, sắp đặt cho mình một chốn yên nghỉ ngàn thu thần tiên như thế này”.
Cậu thong thả trở lại cửa hang, nghe tiếng gọi của Chu Trường Linh ở trong hang:
- Tiểu huynh đệ, ngươi mau bò ra đi, ở mãi trong ấy không sợ buồn chết hay sao?
Trương Vô Kỵ cười to:
- Ở trong này thú lắm!
Cậu với tay hái mấy trái cây không biết tên gì mọc ở các cành thấp, mới cầm trên tay đã ngửi mùi thơm dễ chịu, cắn thử một miếng cảm thấy ngon ngọt lạ thường, giòn hơn đào, thơm hơn táo, lại mọng nước hơn lê. Cậu ném một trái vào hang cho Chu Trường Linh, nói:
- Bắt lấy này, ngon phải biết!
Trái cây va vào vách đá mấy cái đã vỡ nát. Chu Trường Linh nhặt ăn cả vỏ lẫn hạt, ăn xong vẫn thấy đói cồn cào, lại gọi:
- Tiểu huynh đệ, cho ta vài trái nữa đi!
Trương Vô Kỵ nói:
- Chu bá bá là hạng người bất lương, có chết đói cũng đáng! Muốn ăn quả thì tự bò vào mà lấy.
Chu Trường Linh nói:
- Thân ta to quá, chui không lọt!
Trương Vô Kỵ cười:
- Liệu xẻ ra làm hai, có chui lọt được chăng?
Chu Trường Linh biết âm mưu của mình đã bại lộ, Trương Vô Kỵ hẳn sẽ mặc ông ta chết đói dần để báo thù, vết thương ở ngực lại đau nhói lên, ông ta bèn lớn tiếng chửi:
- Tặc tiểu quỷ kia, trái cây trong hang không lẽ đủ cho ngươi ăn suốt đời sao? Ta ở ngoài này chết đói, ngươi giỏi lắm cũng chỉ sống thêm vài ngày, trước sau gì cũng chết đói thôi.
Trương Vô Kỵ không thèm lý đến ông ta nữa, cậu ăn bảy tám trái nữa thì no bụng.
Sau đó hồi lâu, bỗng thấy một luồng khói từ trong hang bay ra. Trương Vô Kỵ kinh ngạc, nhưng lập tức vỡ lẽ: thì ra Chu Trường Linh ở bên ngoài hun khói vào hang để buộc mình phải bò ra, chứ đâu biết rằng Vô Kỵ đang ở một nơi trời đất bao la thế này, dù ông ta có đốt ngàn vạn cành tùng cũng uổng công. Cậu thấy tức cười, giả vờ ho sặc sụa, Chu Trường Linh gọi:
- Tiểu huynh đệ, bò ra đi, ta thề không hại ngươi đâu.
Trương Vô Kỵ kêu “ối” một tiếng, giả bộ ngất lịm, rồi bỏ đi.
Cậu đi về hướng tây được hơn hai dặm thì thấy một dòng thác từ trên núi cao đổ xuống, có lẽ do tuyết tan tạo thành, ánh nắng chiếu vào trông như một con rồng lớn bằng ngọc, vô cùng tráng lệ. Dòng thác đổ xuống một đầm nước màu trong xanh, nước hồ không dâng đầy, tức thị có đường thoát đi nơi khác. Cậu ngắm cảnh một lát, cúi xuống thấy chân tay mình lấm lem bùn đất và rêu xanh, lẫn với nhiều vết máu do bị cào xước, bèn tới bên bờ đầm cởi giày cỏ và xà cạp, lội xuống tắm rửa.
Đang tắm rửa, bỗng thấy một con cá trắng dài tới hơn một thước từ dưới đầm phóng mình lên khỏi mặt nước. Trương Vô Kỵ vội đưa tay chụp, tuy trúng mình cá nhưng nó trơn tuột đi. Cậu đứng yên nhìn kỹ, thấy dưới làn nước xanh trong có hơn một chục con cá trắng lớn đang bơi qua bơi lại.
Cách bắt cá, cậu đã học từ hồi còn nhỏ ở Băng Hỏa đảo. Cậu bẻ cành cây cứng, tạo một đầu nhọn, rồi đứng trên bờ đầm lặng lẽ chờ đợi, cứ hễ có con cá nào bơi gần lên mặt nước là cậu đâm mạnh mũi nhọn xuống, trúng vào thân con cá.
Vô Kỵ reo mừng, lại dùng cành nhọn rạch bụng con cá, vứt ruột đi, rửa sạch, rồi kiếm củi khô, dùng hỏa đao, hỏa thạch và bùi nhùi mang theo bên người mà nhóm lửa nướng cá. Lát sau mùi cá thơm phức, biết đã chín, cho vào miệng ăn thật thơm ngon vô cùng, tựa hồ trong đời chưa bao giờ được ăn món gì ngon hơn thế. Phút chốc, cậu đã chén hết cả một con cá to.
Trưa hôm sau, Trương Vô Kỵ lại bắt một con cá to, nướng ăn, nghĩ thầm: “Mình nhất thời còn sống, phải giữ lấy lửa, kẻo khi hết bùi nhùi thì phiền”, bèn vun tro thành vòng tròn, vùi cành củi cháy dở vào đó, đề phòng lửa tắt. Hồi ở Băng Hỏa đảo, mọi vật dụng đều phải tự chế lấy, nay một mình ở chốn hoang dã này, cậu cũng lấy đất nặn thành nồi, bện cỏ thành nệm.
Bận đến tận chiều tối, nghĩ Chu Trường Linh chắc đói meo, Trương Vô Kỵ bèn hái một bọc trái cây ném vào trong hang. Cậu sợ nếu cho ông ta ăn cá, lỡ như ông ta đủ sức khỏe chui qua hang thì nguy to, nên không cho món cá nướng.
Đến ngày thứ tư, Trương Vô Kỵ đang nặn một cái bếp bỗng nghe có tiếng khỉ kêu chí chóe ra chiều thảm thiết và cấp bách lắm. Cậu theo tiếng kêu chạy tới, thấy dưới chân vách núi có một con khỉ đang bị một hòn đá đè lên, không cựa quậy được, chắc là nó ngã từ trên vách núi xuống đây. Trương Vô Kỵ tới lăn hòn đá sang một bên, chân phải của con khỉ bị gãy, nó đau quá cứ kêu khèng khẹc luôn miệng.
Trương Vô Kỵ buộc hai cành cây vào chỗ chân gãy cho con khỉ, lại tìm một số thảo dược nhai nát đắp vào vết thương cho nó. Tuy ở đây khó tìm đúng dược thảo thích hợp cho bài thuốc kiến hiệu, nhưng nhờ thủ pháp tiếp cốt khéo léo của cậu, cái chân gãy của con khỉ cũng có thể lành.
Con khỉ kia cũng biết trả ơn, hôm sau nó đi hái rất nhiều trái cây mang về cho Trương Vô Kỵ. Mười ngày sau cái chân gãy của con khỉ quả nhiên đã lành hẳn.
Ở trong thung lũng ngày dài không có việc gì làm, Trương Vô Kỵ thường đùa giỡn cùng bầy khỉ, nếu chất hàn độc không bất chợt phát tác thì cuộc sống ở đây vô cùng thích thú. Có lần thấy bầy sơn dương đi qua, cậu toan giết một con nướng ăn, nhưng thấy bầy thú hiền lành dễ thương, cậu không nỡ ra tay. Cũng may cá trong đầm và trái cây quá nhiều nên thức ăn không thiếu. Vài hôm cậu lại bắt được một con gà rừng bên khe suối, ăn thịt thật là ngon.
Cứ như thế hơn một tháng, một buổi sớm Trương Vô Kỵ còn đang mơ màng chưa tỉnh giấc, bỗng cảm thấy có một bàn tay to lớn lông lá vuốt vuốt nhẹ vào má cậu. Trương Vô Kỵ giật mình bật ngay dậy, thấy một con vượn lớn lông trắng ngồi ngay bên cạnh, đang bế một con khỉ nhỏ vẫn cùng cậu đùa nghịch hàng ngày. Con khỉ nhỏ kêu chút cha chút chít luôn miệng, tay chỉ vào bụng con vượn. Trương Vô Kỵ ngửi thấy mùi hôi thối, trên bụng con vượn máu mủ bê bết, có một cái nhọt to tướng, bèn cười nói:
- Giỏi, giỏi, thì ra mi đem bệnh nhân tới cho thầy lang cơ đấy!
Con vượn trắng giơ tay, chìa ra một quả bàn đào to bằng nắm tay, cung kính dâng lên.
Trương Vô Kỵ nhìn trái bàn đào lớn chín đỏ, nghĩ thầm: “Mẫu thân ta từng kể chuyện cổ tích, ở núi Côn Luân có tiên nữ Vương Mẫu, mỗi lần sinh nhật lại thết tiệc bàn đào, mời quần tiên đến dự. Tây Vương Mẫu không biết có thật hay không, còn chuyện ở núi Côn Luân có bàn đào lớn thì chẳng phải hoang đường”. Cậu liền tươi cười nhận trái bàn đào, nói:
- Ta không lấy tiền công, dù không có đào tiên, ta cũng vẫn chữa bệnh cho ngươi.
Cậu đưa tay nắn nhẹ vào bụng con vượn, bất giác giật mình.
Thì ra cái nhọt của loài vượn chỉ nhỏ chừng một tấc, nhưng đằng này lại to gấp mười lần thông thường, mà cứng ngắc. Trong y thư không chép loại ung nhọt nào lớn cỡ ấy, nếu toàn bộ chỗ cứng đều thành mủ, chỉ e không chữa được. Cậu bắt mạch cho con vượn, thấy không có triệu chứng nguy hiểm, bèn vạch đám lông dày ở bụng nó ra xem, nhìn cái nhọt lại càng kinh ngạc, thấy giữa bụng nó lồi lên một cục vuông vuông, chu vi được khâu lại bằng chỉ, rõ ràng là do bàn tay con người, loài vượn dù thông minh đến mấy cũng không đời nào biết may vá. Cậu khám kỹ cái nhọt lần nữa, biết là vật bên trong lồi ra kia đã làm tắc nghẽn huyết mạch khiến cơ bụng bị thối rữa đã lâu, muốn chữa khỏi bệnh thì không thể không lấy cái vật trong bụng con vượn ra.
Nói tới việc mổ xẻ trị thương, Trương Vô Kỵ đã học được ở Hồ Thanh Ngưu rất thành thạo. Nhưng ở đây không có dao kéo, cũng chẳng có thuốc men, thật là khó. Cậu nghĩ một hồi, rồi cầm một hòn đá ném mạnh vào hòn đá khác, tìm một mảnh vỡ thật sắc cạnh, thong thả cắt các mối chỉ khâu trên bụng con vượn. Con vượn này đã già, rất có linh tính, nó biết Trương Vô Kỵ trị bệnh cho nó, nên tuy bị đau ghê gớm nhưng nó vẫn cố nhịn không cựa quậy.
Trương Vô Kỵ cắt xong đường chỉ khâu bên phải và đường bên trên, vạch lớp da bụng lên theo đường chéo góc, thấy một cái bọc bằng vải dầu. Cậu rất ngạc nhiên, nhưng lúc này chưa vội mở cái bọc ra xem, chỉ lấy ra đặt sang một bên, rồi may da bụng lại cho con vượn. Không có kim chỉ, cậu đành dùng xương cá làm kim, chọc lỗ nhỏ trên da bụng, lấy vỏ cây tước ra làm chỉ, xuyên qua lỗ kia mà buộc lại, khâu xong thì bôi thuốc lên vết thương. Công việc ấy mất ngót nửa buổi mới hoàn tất, con vượn tuy rất khỏe nhưng cũng nằm bệt dưới đất mệt nhoài.
Trương Vô Kỵ rửa sạch vết máu trên tay và trên cái bọc, mở ra xem, hóa ra trong đó có bốn cuốn kinh thư mỏng. Nhờ được gói chặt bằng lớp vải dầu, nên tuy nằm trong bụng con vượn rất lâu mà bốn cuốn kinh thư ấy không hề bị hư hại. Bìa bộ kinh thư viết mấy chữ loằng ngoằng, cậu không đọc được chữ nào cả, còn giở bên trong, thì cả bốn cuốn đều chi chít những chữ quái dị, song xen giữa mỗi hàng đều có viết chữ Hán theo kiểu chữ khải chỉ nhỏ bằng đầu ruồi.
Trương Vô Kỵ định thần, đọc kỹ từ đầu, hình như sách này viết về yếu quyết luyện khí vận công; cậu chầm chậm đọc dần xuống dưới, đột nhiên giật mình khi thấy có ba hàng kinh văn quá quen thuộc, chính là “Võ Đang cửu dương công” mà thái sư phụ và Du nhị bá đã dạy cho cậu, nhưng tiếp sau thì lời văn lại không giống. Vô Kỵ giở thêm vài trang, lại gặp câu nói về “Võ Đang cửu dương công”, song nội dung khác hẳn với những gì thái sư phụ và Du nhị bá đã dạy.
Trương Vô Kỵ gấp sách lại, trống ngực đập dồn, nghĩ thầm: “Bộ kinh thư này rốt cuộc là sách gì đây? Sao lại có đoạn nói về “Võ Đang cửu dương công” ở trong đó? Thế nhưng lại không hoàn toàn giống như võ công bản môn sở truyền? Kinh văn sao lại nhiều gấp mười lần của phái Võ Đang là sao?”
Nghĩ tới đây, cậu chợt nhớ câu chuyện thái sư phụ đã kể hồi dẫn cậu lên Thiếu Lâm tự: sư phụ của thái sư phụ là Giác Viễn đại sư học thuộc Cửu dương chân kinh, trước khi chết có tụng cuốn kinh đó, khi ấy ba người ở bên cạnh Giác Viễn đại sư là thái sư phụ Trương Tam Phong, Quách Tương nữ hiệp và Vô Sắc đại sư phái Thiếu Lâm, mỗi người ghi nhớ được một phần, nhờ đó võ công của ba phái Võ Đang, Thiếu Lâm, Nga Mi đại tiến, mấy chục năm qua mỗi phái một vẻ, danh chấn võ lâm. “Chẳng lẽ đây chính là bộ Cửu dương chân kinh đã bị người ta lấy cắp? Đúng rồi! Thái sư phụ bảo rằng bộ Cửu dương chân kinh được chép ở phần lề lẫn với bộ kinh Lăng Già, những chữ loằng ngoằng này hẳn là kinh Lăng Già viết bằng tiếng Phạn. Nhưng tại sao nó lại nằm trong bụng con vượn nhỉ?”
Bộ kinh thư này đích thị là Cửu dương chân kinh, còn việc tại sao nó lại nằm trong bụng con vượn thì chẳng còn ai trên thế gian biết được.
Chuyện rằng hơn chín chục năm về trước, Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây đã lấy cắp bộ kinh thư này khỏi Tàng kinh các của chùa Thiếu Lâm, bị Giác Viễn đại sư truy đuổi đến tận đỉnh núi Hoa Sơn, thấy không thể nào thoát thân, vừa hay bên cạnh có con vượn xám, Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây bèn nghĩ ra một kế liền mổ bụng con vượn giấu bộ kinh vào đó. Khi Giác Viễn, Trương Quân Bảo và Dương Quá lục soát trong người hai tên này đều không thấy kinh thư đâu cả, đành thả cho hai tên này cùng con vượn xuống núi. Việc mất bộ Cửu dương chân kinh trở thành đại nghi án trong võ lâm ngót trăm năm nay. Sau đó Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây đem con vượn chạy sang Tây Vực, nhưng hai tên đó trong bụng cứ nghi ngờ nhau, sợ đối phương tập được thứ võ công chép trong kinh thư trước rồi sẽ giết mình, nên cả hai cứ canh chừng nhau, lần lữa chưa dám lấy bộ kinh trong bụng con vượn ra. Cuối cùng hai tên đến ngọn núi Kinh Thần trong dải Côn Luân, ra tay sát hại nhau đến mức lưỡng bại câu thương, thành thử bộ kinh tâm pháp tối cao về tu luyện nội công này cứ nằm lại trong bụng con vượn xám.[62]
Võ công Tiêu Tương Tử vốn cao hơn Doãn Khắc Tây một bậc, nhưng vì lúc ở trên tuyệt đỉnh Hoa Sơn hắn có đánh Giác Viễn đại sư một quyền, bị lực dội lại mà trọng thương, thành thử khi đấu với Doãn Khắc Tây, hắn lại bỏ mạng trước. Còn Doãn Khắc Tây lúc hấp hối đã gặp Côn Luân Tam Thánh Hà Túc Đạo, lương tâm nhắc nhở, mới nhờ Hà Túc Đạo đến Thiếu Lâm tự nói cho Giác Viễn đại sư biết rằng bộ kinh ấy giấu ở trong bụng con vượn. Nhưng lúc ấy thần trí hắn đã không còn tỉnh táo, giọng nói thều thào, cho nên câu “kinh tại hầu trung”[63], Hà Túc Đạo lại nghe thành “kinh tại dầu trung”[64]. Hà Túc Đạo giữ lời hứa, quả nhiên đi Trung nguyên chuyển lại câu “kinh tại dầu trung” cho Giác Viễn đại sư. Giác Viễn đại sư không hiểu nghĩa là gì, cũng vì câu này mà nổi lên một trận đại phong ba, sau đó võ lâm có thêm hai phái Võ Đang và Nga Mi.
Con vượn xám kia cũng thật may, ở trong núi Côn Luân ăn đào tiên, được hưởng linh khí của trời đất, qua hơn chín chục năm vẫn còn chạy nhảy như bay, bộ lông dài màu xám ban đầu dần dần chuyển sang màu trắng xóa, thành một con vượn trắng. Riêng bộ kinh vẫn nằm trong bụng nó, đè ép bao tử và ruột, nên nó hay bị đau bụng, vết thương trong bụng khi lành khi loét, mãi đến hôm nay mới được Trương Vô Kỵ lấy kinh ra, đối với con vượn mà nói, quả là trừ được mối đại họa trong gan ruột.
Tất cả manh mối đầu đuôi ấy, dù có người thông minh gấp trăm lần Trương Vô Kỵ cũng chẳng thể nghĩ ra. Trương Vô Kỵ ngẩn người một hồi, tự biết mình không giải thích được, cũng chẳng nên phí tâm suy nghĩ làm gì, bèn lấy trái bàn đào mà con vượn trắng tặng cho, cắn một miếng, thấy nước đào chảy xuống cổ họng thật ngon ngọt, ngon hơn hết thảy các thứ trái cây không tên trong thung lũng này mà cậu vẫn ăn.
Trương Vô Kỵ ăn hết trái bàn đào, nghĩ thầm: “Thái sư phụ năm nào từng bảo, nếu ta luyện được Cửu dương thần công của cả ba phái Võ Đang, Thiếu Lâm, Nga Mi là có thể khu trừ âm độc trong cơ thể. Cửu dương công của cả ba phái đều bắt nguồn từ Cửu dương chân kinh, nếu bốn cuốn sách này đúng là bộ Cửu dương chân kinh thì mình cứ theo đó luyện tập, sẽ hơn hẳn học Cửu dương thần công của ba phái. Ở thung lũng này cũng chả có việc gì làm, mình cứ theo sách mà tập luyện thôi. Còn giả dụ mình đoán nhầm, tập theo bộ sách này là vô dụng, chỉ có hại, thì cũng chỉ chết là cùng”.
Yên tâm rồi, Trương Vô Kỵ bèn lấy ba quyển kinh thư cất vào một chỗ cao ráo, trên phủ cỏ khô, lại xếp chồng ba tảng đá lên trên để lũ khỉ khỏi nghịch ngợm lấy ra tranh giành nhau, xé rách không chừng. Cậu chỉ cầm quyển thứ nhất, trước tiên đọc đi đọc lại mấy lần cho thuộc lòng, sau đó tham cứu thể hội, bắt đầu tập từ câu thứ nhất trở đi.
Cậu nghĩ thầm: “Dẫu theo kinh thư này ta có tập được thần công, khu trừ âm độc trong cơ thể, nhưng lại bị giam hãm trong thung lũng bốn bề vách núi vây quanh thế này, cũng đâu có thoát ra được. Nơi đây ngày rộng tháng dài, hôm nay luyện xong cũng tốt, ngày mai luyện xong cũng hay, mà dẫu có luyện chẳng thành thì cũng coi như là một cách tiêu hao thời gian nhàn rỗi”. Với tâm trạng thành bại chẳng hệ trọng, việc luyện tập của cậu tiến triển rất nhanh, chỉ sau bốn tháng ngắn ngủi đã hiểu kỹ mọi điều ghi trong quyển kinh thứ nhất và luyện thành công.
Luyện xong quyển kinh thứ nhất, bấm đốt ngón tay, kỳ hạn mà Hồ Thanh Ngưu dự đoán chất hàn độc phát tác khiến Trương Vô Kỵ phải chết đã qua song cậu cảm thấy cơ thể nhẹ nhàng khoan khoái, chân khí lưu động toàn thân, không có dấu hiệu bệnh tật nào cả; ngay cả chất hàn độc trước kia thường xuyên phát tác, bây giờ có khi cách cả tháng mới bị một lần, và bị cũng rất nhẹ. Không lâu sau Vô Kỵ đọc trong quyển kinh thứ hai, đến câu: “Đóng mở chín mạch dương, giữ chặt nguyên khí, sách này có tên là Cửu dương chân kinh”, thì cậu mới biết chính xác đây là Cửu dương chân kinh, bộ bảo điển mà thái sư phụ đêm ngày ghi nhớ. Thế là cậu vui mừng vô hạn, tập luyện càng thêm chăm chỉ. Con vượn trắng cảm cái ân trị bệnh, thường hái bàn đào đem đến tặng cậu, là một món ăn bổ nguyên kiện thể. Luyện mới xong nửa quyển kinh thứ hai thì âm độc trong người đã được khu trừ không còn tung tích gì nữa.
Ngày ngày ngoài việc luyện công, Trương Vô Kỵ chơi đùa với bầy khỉ vượn; mỗi lần hái trái cây, cậu lại chia cho Chu Trường Linh một nửa, cậu cứ thế sống cuộc đời không lo phiền, tự do tự tại. Còn Chu Trường Linh ở trên cái bình đài nho nhỏ bên kia hang, đúng là một ngày dài bằng cả một năm, mỗi khi mùa đông tới, núi ngập băng tuyết, gió lạnh thấu xương, cảnh khổ kể sao cho xiết.
Trương Vô Kỵ luyện xong quyển kinh thứ hai thì không còn sợ nóng sợ lạnh. Có điều càng luyện về sau, càng đi sâu vào sự huyền diệu, tiến triển càng chậm, luyện quyển kinh thứ ba tốn cả một năm mới xong, riêng quyển kinh thứ tư phải mất đứt hơn ba năm mới hoàn toàn thành tựu.
Trương Vô Kỵ ở thung lũng này đã hơn năm năm, từ một thiếu niên nay trở thành một chàng trai cao lớn. Hai năm sau cùng, thi thoảng nổi hứng, chàng lại cùng bọn khỉ vượn leo lên vách núi, từ trên cao nhìn xuống bốn bề. Với công lực của chàng hiện giờ, việc vượt núi mà ra không còn là chuyện khó. Nhưng nghĩ đến bụng dạ hiểm độc của người đời, chàng không khỏi rùng mình, nghĩ bụng tội gì phải ra bên ngoài chuốc lấy phiền não, tự chui đầu vào rọ? Cứ sống trong cái thung lũng thần tiên này cho đến già, đến chết, chẳng phải hay hơn không?
Chiều hôm đó, Trương Vô Kỵ lấy bốn quyển kinh thư ra đọc lại một lần từ đến chí cuối, đọc xong quyển cuối cùng, trong lòng vừa vui sướng, vừa bâng khuâng. Chàng khoét một cái hang mới sâu ba thước ở vách núi, bên trái cái hang cũ, đem bốn quyển Cửu dương chân kinh, bộ Y kinh của Hồ Thanh Ngưu, cuốn Độc kinh của Vương Nạn Cô, tất cả gói lại kỹ càng trong tấm vải dầu lấy từ bụng con vượn ra, chôn vào hang, vùi đất lên, nghĩ thầm: “Ta lấy được bộ kinh thư từ trong bụng con vượn, là cơ duyên cực lớn, không biết trăm, ngàn năm sau, có ai lạc đến chốn này, may mắn tìm thấy bộ kinh này chăng?” Chàng nhặt một hòn đá nhọn, viết lên vách núi sáu chữ “Nơi Trương Vô Kỵ cất kinh”.
Khi còn luyện công, ngày ngày có việc chú tâm vào làm nên Vô Kỵ không cảm thấy tịch mịch. Bây giờ đại công đã thành, trong lòng chàng lại thấy trống trải, hơn nữa thần công đã thành, lòng can đảm gia tăng, chàng nghĩ thầm: “Lúc này Chu bá bá có muốn hại ta, ta cũng chả sợ, chi bằng ta qua bên ấy nói chuyện chơi”, thế là chàng uốn mình chui vào hang. Ngày trước, từ hang này chui ra, chàng mới mười lăm tuổi, thân hình nhỏ bé; nay chui vào đã hai mươi tuổi, thân hình cao to, làm sao chui lọt cái hang nhỏ hẹp? Chàng hít một hơi, vận Thúc cốt công co rút xương toàn thân lại sát với nhau, nhẹ nhàng luồn vào hang.
Chu Trường Linh đang tựa lưng vào vách đá ngủ say, mơ thấy đang ở nhà mở đại tiệc, gia nhân bằng hữu tấp nập vô cùng vui vẻ; đột nhiên có người lay lay vai ông ta; ông ta giật mình choàng tỉnh, mở mắt ra thấy một bóng người cao lớn đứng ngay trước mặt. Chu Trường Linh bật dậy, thần trí chưa hoàn toàn tỉnh táo, kêu lên:
- Ngươi… ngươi…
Trương Vô Kỵ mỉm cười, nói:
- Chu bá bá, tiểu điệt đây, Trương Vô Kỵ đây mà.
Chu Trường Linh vừa kinh ngạc, vừa mừng, vừa hận vừa buồn, nhìn chàng hồi lâu, rồi nói:
- Cậu cao lớn quá rồi. Hừ, sao bấy lâu nay không ra nói chuyện với ta? Bất kể ta cầu khẩn thế nào, cậu cũng không lý đến, là sao?
Trương Vô Kỵ mỉm cười:
- Tiểu điệt sợ Chu bá bá hành hạ tiểu điệt.
Chu Trường Linh tay phải chộp ra, thi triển cầm nã thủ pháp, tóm vai Trương Vô Kỵ, xẵng giọng hỏi:
- Thế hôm nay không sợ nữa ư?
Đột nhiên lòng bàn tay ông ta nóng như phải bỏng, cánh tay bất giác giật lại, buông vai Vô Kỵ ra, ngực thì đau tức; ông ta vội lùi ba bước, ngơ ngẩn nhìn chàng, miệng lắp bắp:
- Cậu… cậu… có công phu gì vậy?
Từ khi luyện thành Cửu dương thần công, đây là lần đầu tiên Trương Vô Kỵ sử dụng, thấy uy lực như vậy. Chu Trường Linh là cao thủ bậc nhất, vậy mà bị thần công của chàng làm cho chấn động phải buông tay tức thì. Chàng nhìn Chu Trường Linh hốt hoảng, trong lòng không khỏi thầm đắc ý, cười nói:
- Bá bá thấy công phu ấy thế nào?
Chu Trường Linh chưa hoàn hồn, lại hỏi:
- Cái đó… môn đó là công phu gì thế?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Đó là Cửu dương thần công.
Chu Trường Linh hỏi:
- Làm cách nào cậu luyện thành?
Trương Vô Kỵ cũng chẳng buồn giấu, bèn kể lại việc trị thương cho con vượn trắng, nhờ đó lấy được bộ kinh thư trong bụng nó, theo đấy tu luyện.
Chu Trường Linh nghe xong chỉ càng ghen tức, nghĩ thầm: “Ta ở trên ngọn núi tuyết này năm năm trời chịu xiết bao khổ ải, còn tên tiểu tử này lại luyện được thần công tuyệt diệu”. Ông ta chẳng nghĩ rằng chính mình mưu toan hại người nên mới lạc tới đây, cũng không nhớ cái ơn năm năm qua Trương Vô Kỵ ngày ngày hái trái cây ném cho ông ta ăn, ông ta mới sống được tới hôm nay, chỉ nghĩ tiểu tử này sao quá may mắn, còn mình thì quá xui xẻo, thật quá bất công, bèn cố nén giận, cười hề hề, nói:
- Thế bộ Cửu dương chân kinh ấy đâu rồi, cho ta xem một chút được chăng?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Cho ông ta xem một chút thì đã sao? Không lẽ trong giây lát có thể nhớ được hết ư?” liền nói:
- Tiểu điệt chôn trong hang, ngày mai sẽ lấy ra cho bá bá xem.
Chu Trường Linh hỏi:
- Cậu cao lớn như thế, làm sao chui lọt qua hang?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Cái hang cũng chả hẹp lắm đâu, chỉ cần co mình lại, dùng sức trườn một cái là qua thôi.
Chu Trường Linh hỏi:
- Cậu thấy liệu ta có trườn qua được hay không?
Trương Vô Kỵ gật đầu:
- Để mai chúng ta hãy thử xem, bên trong hang rộng rãi lắm, chứ ở mãi trên cái bình đài nhỏ hẹp này thật chẳng thích chút nào.
Trương Vô Kỵ nghĩ rằng nếu mình vận công ép hai vai, ngực, xương sườn, mông và các khớp xương cho Chu Trường Linh thì có thể giúp ông ta chui lọt qua hang. Chu Trường Linh cười, nói:
- Tiểu huynh đệ, cậu thật là tốt, bậc quân tử không nhớ chuyện cũ, trước kia ta có điều không phải với cậu, mong cậu bỏ qua cho.
Nói xong vái một cái thật dài. Trương Vô Kỵ vội hoàn lễ, nói:
- Chu bá bá không cần khách sáo! Ngày mai chúng ta sẽ cùng nghĩ cách rời khỏi nơi này.
Chu Trường Linh cả mừng, hỏi:
- Cậu bảo có thể rời khỏi nơi này ư?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Khỉ vượn có thể leo ra leo vào, chắc chắn mình cũng làm được.
Chu Trường Linh hỏi:
- Thế sao cậu không ra từ sớm?
Trương Vô Kỵ mỉm cười, nói:
- Trước kia tiểu điệt chả nghĩ tới chuyện rời khỏi nơi đây, chỉ sợ bị người ta hà hiếp, bây giờ không sợ nữa, nên tính chuyện về thăm thái sư phụ và các vị sư bá sư thúc.
Chu Trường Linh cười ha hả, vỗ tay reo:
- Hay quá, hay quá!
Chân ông ta lùi hai bước, đột nhiên trượt chân, người chao đi, kêu “Ối” một tiếng, chân đạp vào khoảng không, từ mép đá rơi xuống bên dưới.
Sự việc xảy ra đột ngột, Trương Vô Kỵ cả kinh, cúi nhìn xuống, gọi:
- Chu bá bá, bá bá có sao không?
Chỉ nghe bên dưới vọng lên hai tiếng rên yếu ớt. Trương Vô Kỵ cả mừng, nghĩ thầm: “May quá, chưa rơi xuống vực, nhưng có lẽ cũng bị thương”. Nghe tiếng rên, đoán chừng khoảng cách chỉ vài trượng, chàng nhìn kỹ thì thấy bên dưới mỏm đá này có một cây tùng mới nhô ra, Chu Trường Linh đang nằm vắt ngang trên cây, không dám động đậy. Trương Vô Kỵ quan sát tình thế, với công lực hiện tại của chàng, việc nhảy xuống ôm Chu Trường Linh mang lên đây cũng không mấy khó khăn, thế là chàng hít một hơi, nhắm một cành cây to bằng bắp tay, nhẹ nhàng thả mình xuống đó.
Chân chàng còn cách cành cây kia chừng nửa thước, đột nhiên cái cành ấy gãy rời, rớt xuống. Chàng đang lơ lửng trong không trung, làm gì có chỗ nào để mượn sức; dù chàng đã luyện thành thần công tuyệt đỉnh, nhưng vẫn là người chứ đâu phải chim chóc, đâu có thể bay ngược trở lên? Ý nghĩ vụt qua trong đầu như một ánh chớp: “Thì ra Chu Trường Linh lại dùng gian kế hại ta; hắn bẻ gãy cành cây kia cầm trong tay, chờ ta đáp xuống gần tới liền buông rơi”. Chàng hiểu được như thế thì đã muộn, thân hình cứ thế rơi thẳng xuống.
Chu Trường Linh ở trên cái bình đài nho nhỏ, rộng không quá mươi trượng kia hơn năm năm, từng ngọn cỏ, từng viên sỏi đều biết rõ. Trong bóng tối ông ta giả vờ trượt chân bị thương, biết Trương Vô Kỵ sẽ nhảy xuống cứu, quả nhiên gian kế thành công, khiến Trương Vô Kỵ rơi xuống vực sâu muôn trượng.
Chu Trường Linh cười ha hả, nghĩ thầm: “Hôm nay cho tên tiểu tử kia thành một đống thịt nát nhừ mới thỏa mối hận trong lòng ta hơn năm năm qua!” Họ Chu níu sợi dây leo ở bên cạnh cây tùng, leo ngược lên bình đài, nghĩ bụng: “Lần trước ta chui vào hang không lọt, cũng vì nôn nóng dùng sức quá mạnh, đến nỗi gãy xương sườn. Tên tiểu tử này thân xác to hơn hẳn ta, nó đã chui lọt, thì ta cũng sẽ chui lọt. Sau khi lấy được bộ Cửu dương chân kinh, ta sẽ tìm đường trở về, luyện thành thần công, vô địch trong thiên hạ, thật là sung sướng! Ha ha, ha ha!”
Chu Trường Linh càng nghĩ càng đắc ý, bèn chui luôn vào hang, chẳng bao lâu đã tới chỗ năm năm trước ông ta bị gãy xương sườn. Trong đầu ông ta chỉ có một ý nghĩ: “Tên tiểu tử ấy to lớn hơn ta mà chui lọt, ta đương nhiên cũng sẽ chui lọt”. Nghĩ thế là đúng, nhưng họ Chu lại quên một điều, là Trương Vô Kỵ đã luyện được phép thúc cốt[65] trong Cửu dương thần công.
Hắn bình tâm tĩnh khí, nhích từng tấc từng tấc qua chỗ hẹp trong hang, quả nhiên so với năm năm trước đã tiến sâu hơn một trượng, nhưng đến đây rồi, dẫu cố mấy cũng không thể nhích thêm được dù chỉ nửa tấc.
Hắn biết nếu lại làm mạnh, sẽ chỉ đi vào vết xe đổ năm năm trước, ắt bị gãy thêm vài dẻ xương sườn, nên ông ta định thần, cố thở khí trong phổi ra bằng hết, quả nhiên người thu nhỏ thêm được hai tấc, tiến sâu thêm ba thước nữa. Nhưng vì nhịn thở, ngực mỗi lúc một tức, tim đập cứ như tiếng trống hộ đê, chỉ muốn ngất xỉu, ông ta biết là không ổn, đành lùi lại tính sau.
Nào ngờ lúc tiến vào thì hai chân có thể tựa những chỗ lồi lõm trong hang đá mà đẩy người đi, lúc bò lui thì chẳng có gì để tựa. Khi tiến vào, ông ta giơ thẳng hai tay về phía trước để thu hẹp hai vai, bay giờ hai tay bị bốn bề là đá giữ chặt nên không có chút sức lực nào, song trong đầu vẫn nghĩ: “Tên tiểu tử ấy to lớn hơn ta mà chui lọt, ta đương nhiên cũng sẽ chui lọt. Tại sao ta lại bị kẹt ở đây, có lý nào thế được?”
Nhưng trên đời thiếu gì những chuyện như thế, một cao thủ văn tài võ công vào hàng thượng thừa, thông minh cơ trí vào bậc nhất, giờ bị mắc kẹt trong cái hang đá nhỏ hẹp, tiến chẳng được mà lùi cũng chẳng xong.
(còn tiếp)
Nguồn: Ỷ Thiên Đồ Long Ký. Tiểu thuyết của Kim Dung - từng được dịch ra tiếng Việt là Cô gái Đồ Long. Đây là cuốn cuối cùng trong bộ tiểu thuyết Xạ điêu tam khúc. Hương Cảng Thương báo xuất bản lần đầu năm 1961 tại Hồng Kông. Lê Khánh Trường & Lê Việt Anh dịch từ nguyên tác. NXB Văn học, 2002.
Bài viết liên quan
Nam Đế Vạn Xuân
Với hơn 500 trang, 15 hồi gay cấn, sinh động trong từng câu thoại của các nhân vật lịch sử, Tiểu thuyết Lịch sử Nam Đế Vạn Xuân nằm trong bộ Tiểu thuyết dài tập Vương triều tiền Lý của Nhà văn Phùng Văn Khai. Nam Đế Vạn Xuân tái hiện một cách sinh động lịch sử nước nhà xoay quanh triều đại của nhà nước Vạn Xuân (544-602) giúp chúng ta hiểu và tự hào hơn về lịch sử đánh giặc hào hùng của dân tộc. Với bộ nhân vật lịch sử đồ sộ của cả ta lẫn địch như: Lý Nam Đế, Tinh Thiều, Phạm Tu, Triệu Túc, Triệu Quang Phục, Phùng Thanh Hòa… hay Lương Vũ Đế, Vũ lâm hầu Tiêu Tư, Dương Phiêu, Lý Tắc… tạo nên rất nhiều tình tiết móc ngoặc, những cuộc đấu trí gay cấn hay những lời thoại sinh động của từng nhân vật. Nam Đế Vạn Xuân như một con tàu thời gian đưa ta ngược trở về từng quãng của lịch sử cách đây gần 1500 năm từ khi Lý Bí tu tập tại chùa Cổ Pháp đến thời điểm làm Giám quân ở Đức Châu và cuối cùng là đuổi giặc Lương lên ngôi tại điện Vạn Thọ. Đó cũng là lần đầu tiên Việt Nam có hoàng đế và niên hiệu Thiên Đức là niên hiệu riêng đầu tiên để chứng tỏ nước ta đã giành lại độc lập từ tay Trung Quốc.
Tìm kiếm
Lượt truy cập
- Tổng truy cập57,865,905
Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam
Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.
*Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...
Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.
WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)
Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.
The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.
Enjoy life, enjoy Arita experience!
Đọc nhiều nhất
- Phạm Hổ - Thơ viết cho nhi đồng
- Người của giang hồ (5): Lâm Chín ngón
- Thuật quan sát người (4)
- Người của giang hồ (11): Hải bánh
- Người của giang hồ (8): Huỳnh Tỳ
- Thuật quan sát người (2)
- Hoàng hôn của những thần tượng
- Vài nét về tục Cúng Mụ, đầy tháng, thôi nôi
- Vài tư liệu về Tục thờ Thánh Mẫu
- Chùm thơ về Tây Nguyên


