Tìm kiếm

Lượt truy cập

  • Tổng truy cập57,865,865

Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

     

    Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

    *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

    WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

    Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

    The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

    Enjoy life, enjoy Arita experience!

Tiểu thuyết

Ỷ Thiên Đồ Long ký

Kim Dung

  • Thứ hai, 08:37 Ngày 18/01/2021
  • Ỷ Thiên Đồ Long ký

    Trận đấu kinh tâm động phách trong cánh rừng đêm nay, Thường Ngộ Xuân và Trương Vô Kỵ đã chứng kiến từ đầu tới cuối, nghe rõ từng lời, mãi khi Đinh Mẫn Quân đi rồi, hai người mới thở phào nhẹ nhõm.

    Trương Vô Kỵ nói:

    - Thường đại ca, Kỷ cô nương là hôn thê của Ân lục thúc tiểu đệ, cái bà họ Đinh kia lại bảo… Kỷ cô nương có con với người khác, đại ca nghĩ là thật hay giả?

    Thường Ngộ Xuân đáp:

    - Cái ả đó hồ ngôn loạn ngữ, đừng tin làm gì.

    Trương Vô Kỵ nói:

    - Đúng thế, sau này tiểu đệ sẽ nói Ân lục thúc dạy cho bà ta một trận, cho Kỷ cô nương đỡ bực mình.

    Thường Ngộ Xuân vội nói:

    - Đừng, đừng! Dù thế nào cũng chớ kể cho Ân lục thúc biết chuyện đó, hiểu chưa? Đệ mà kể là hỏng việc đấy!

    Trương Vô Kỵ ngạc nhiên:

    - Vì sao?

    Thường Ngộ Xuân đáp:

    - Những lời lẽ khó nghe như thế, đệ chẳng nên nói cho bất cứ ai biết.

    Trương Vô Kỵ ừ hử, lát sau lại hỏi:

    - Thường đại ca, đại ca sợ rằng chuyện đó có thật, phải không?

    Thường Ngộ Xuân thở dài:

    - Huynh cũng chả biết nữa.

    Khi trời sáng, Thường Ngộ Xuân đứng lên, cõng Trương Vô Kỵ hăng hái đi tiếp. Y nghỉ ngơi được nửa đêm, tinh thần đã phục hồi, bước đi nhẹ nhàng hơn nhiều. Qua mấy dặm, gặp một con đường lớn. Thường Ngộ Xuân nghĩ thầm: “Hồ sư bá ẩn cư ở Hồ Điệp cốc, là nơi hoang vắng, sao lại có đường lớn thế này? Hay là mình lạc đường rồi?”

    Đang định tìm người dân hỏi thăm bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, bốn tên lính Mông Cổ tay cầm trường đao, phi ngựa tới, hét to:

    - Mau lên, mau lên!

    Chúng tới sau lưng Thường Ngộ Xuân, giơ đao nhứ nhứ xua về phía trước. Thường Ngộ Xuân thầm kêu khổ: “Không ngờ hôm nay rơi vào miệng cọp, lại còn để Trương Vô Kỵ chết theo”.

    Lúc này y đã mất hết võ công, ngay cả một tên lính tầm thường y cũng không chống nổi, đành phải bước đi. Chỉ thấy bách tính lục tục kéo ra con đường lớn đều bị quân Nguyên dồn như lùa súc vật. Thường Ngộ Xuân chợt có hi vọng: “Thì ra bọn Thát tử đang lùa dân, chứ không phải định bắt ta”. Y bèn đi cùng đoàn người, đến một ngã ba, thấy một viên quan quân Mông Cổ ngồi trên lưng ngựa chỉ huy sáu bảy chục tên lính, tên nào cũng lăm lăm đại đao. Dân chúng đi qua chỗ viên quan đều phải quỳ xuống khấu đầu. Một gã người Hán làm thông dịch, quát:

    - Họ gì?

    Người dân trả lời xong, tên lính đứng cạnh đá vào mông hoặc tát tai, người dân vội vàng chạy đi. Một người dân nói họ Trương, tên lính liền giữ lại, bắt đứng sang một bên. Có người dân trong giỏ có con dao thái rau mới mua ở chợ, cũng bị bắt đứng sang một bên.

    Trương Vô Kỵ thấy tình thế có điều bất ổn, ghé tai Thường Ngộ Xuân nói nhỏ:

    - Thường đại ca, hãy giả vờ vấp ngã, lăn qua một bên mà vứt cây đao đi.

    Thường Ngộ Xuân vỡ lẽ, lập tức hai chân khuỵu xuống, lăn luôn vào đám cỏ dày, bỏ cây bội đao lại, giả bộ xuýt xoa khập khiễng tới trước mặt viên quan. Gã thông dịch người Hán quát:

    - Đồ mọi, không hiểu quy củ gì hết, thấy quan lớn còn chưa khấu đầu?

    Thường Ngộ Xuân nghĩ tới toàn gia của chủ cũ là Chu Tử Vượng bị quân Mông Cổ sát hại, lúc này thà chết chứ không chịu lạy viên quan. Một tên lính Nguyên thấy y cứng đầu, bèn đá vào khoeo chân khiến y đứng không vững, phải khuỵu xuống. Gã thông dịch quát:

    - Họ gì?

    Thường Ngộ Xuân chưa kịp đáp đã nghe Trương Vô Kỵ nói thay:

    - Họ Tạ, đây là trưởng huynh của tôi.

    Tên lính Nguyên đá đít Thường Ngộ Xuân một cái, quát:

    - Xéo mau!

    Thường Ngộ Xuân cả giận, đứng dậy, ngầm thề: “Trong đời ta nếu không đánh đuổi bọn Thát tử về sa mạc phương bắc, Thường Ngộ Xuân này không kể là người”. Y cõng Trương Vô Kỵ lên, đi vội về phía bắc, mới được vài chục bước bỗng nghe có tiếng kêu rú thảm thiết sau lưng, ngoảnh lại thấy hơn chục người dân bị bắt đứng sang một bên ban nãy đã nằm chết ngổn ngang dưới đất, đầu một nơi, thân một nẻo. Thời kỳ này triều chính bạo ngược, bách tính nổi dậy chống đối khá nhiều, đại thần Mông Cổ tính giết hết người Hán nhưng không giết xuể, Thái sư Ba Diên đương triều lại ban hành một lệnh là giết sạch tất cả những người Hán nào mang năm họ Trương, Vương, Lưu, Lý, Triệu. Người Hán thì bốn họ Trương, Vương, Lưu, Lý là đông nhất, còn họ Triệu là hoàng tộc triều Tống. Giết hết người năm họ đó, nguyên khí của Hán tộc chắc chắn sẽ bị tổn thất nặng nề.

    Sau đó, số người thuộc các họ ấy đầu hàng, làm quan cho triều Nguyên cũng không ít, có đại thần Mông Cổ khuyến cáo hoàng đế, mới bãi bỏ cái lệnh giết chóc quái gở kia, nhưng số dân đen chết vì lệnh đó đã không biết bao nhiêu mà kể.

    *

    Thường Ngộ Xuân rảo bước, đến vùng hoang vu thì biết đã gần nơi ẩn cư của Hồ Thanh Ngưu, bắt đầu chú ý tìm kiếm. Dọc đường hoa cỏ đủ màu, chỗ nào cũng toàn là hoa tươi khoe sắc dưới nắng xuân, nhưng hai người nghĩ đến thảm trạng vừa qua nên chẳng còn lòng dạ nào thưởng ngoạn phong cảnh. Đi qua mấy chỗ quẹo thấy trước mặt là vách núi, đường vào ngõ cụt rồi.

    Đang ngơ ngác chưa biết đi đâu thì có lũ bướm từ các khóm hoa bay ra. Trương Vô Kỵ nói:

    - Nơi đó nếu gọi là Hồ Điệp cốc, vậy mình cứ theo lũ bướm này mà đi xem sao.

    Thường Ngộ Xuân nói:

    - Đúng lắm.

    Liền đi vào rừng hoa. Qua rừng hoa, thấy trước mặt có một con đường mòn, đi thêm quãng nữa, thấy bướm mỗi lúc một nhiều đủ các màu đen trắng vàng xanh đỏ tím dập dìu. Lũ bướm không hề sợ, đậu cả lên đầu, vai và tay hai người. Hai người biết đã tới Hồ Điệp cốc thì đều vui mừng. Trương Vô Kỵ nói:

    - Để tiểu đệ đi chầm chậm được rồi!

    Thường Ngộ Xuân đặt Vô Kỵ xuống đất.

    Đến quá trưa, thấy một dòng suối trong xanh chảy lượn lờ quanh bảy tám gian nhà tranh, trước sau mỗi nhà đều có vườn, trồng đủ loại hoa cỏ. Thường Ngộ Xuân nói:

    - Đến rồi, đây chính là vườn thuốc của Hồ sư bá.

    Y đến trước căn nhà tranh, lớn tiếng gọi, giọng rất cung kính:

    - Đệ tử Thường Ngộ Xuân khấu kiến Hồ sư bá.

    Lát sau, từ trong nhà có một tiểu đồng bước ra, nói:

    - Mời vào.

    Thường Ngộ Xuân dắt Trương Vô Kỵ đi vào, thấy một vị trung niên thần thanh cốt tú đang đứng nhìn một tiểu đồng khác quạt lò sắc thuốc, trong nhà sực nức mùi dược thảo.

    Thường Ngộ Xuân quỳ xuống khấu đầu, nói:

    - Kính chào Hồ sư bá!

    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Người này chắc là Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu đây”, bèn cũng hành lễ, nói:

    - Kính chào Hồ tiên sinh.

    Hồ Thanh Ngưu gật gật đầu với Thường Ngộ Xuân, nói:

    - Việc của Chu Tử Vượng, ta đã biết cả. Âu cũng là cái số, bọn Thát tử khí vận chưa tuyệt, bổn giáo thì chưa đến thời kỳ quang đại.

    Hồ tiên sinh bắt mạch cho Thường Ngộ Xuân, cởi áo y ra xem vết thương trên ngực, rồi nói:

    - Ngươi trúng phải “Tiệt tâm chưởng” của phiên tăng, lẽ ra cũng không sao, nhưng vì sau khi trúng chưởng lại tốn quá nhiều sức lực khiến cho hàn độc công tâm, trị cho khỏi phải tốn nhiều công phu đấy.

    Đoạn chỉ Trương Vô Kỵ, hỏi:

    - Còn thằng bé này là ai?

    Thường Ngộ Xuân nói:

    - Sư bá, y tên là Trương Vô Kỵ, con của Trương ngũ hiệp phái Võ Đang.

    Hồ Thanh Ngưu ngạc nhiên, mặt có vẻ tức giận, nói:

    - Người của phái Võ Đang ư? Ngươi mang nó tới đây làm gì?

    Thường Ngộ Xuân liền đem chuyện y đưa con của Chu Tử Vượng đào tẩu ra sao, bị quan binh Mông Cổ vây bắt rồi được Trương Tam Phong giải cứu thế nào, kể tỉ mỉ cho Hồ Thanh Ngưu nghe, cuối cùng nói:

    - Đệ tử được thái sư phụ của y cứu mạng, nay khẩn cầu sư bá phá lệ cứu y một lần.

    Hồ Thanh Ngưu lạnh lùng nói:

    - Ngươi khẳng khái, cũng biết báo đáp ân tình kia đấy! Hừ, Trương Tam Phong cứu ngươi, chứ có phải cứu ta đâu. Ngươi đã thấy ta phá lệ bao giờ chưa?

    Thường Ngộ Xuân lại quỳ xuống đất, liên tiếp rập đầu, nói:

    - Sư bá, phụ thân của Vô Kỵ vì không bán rẻ bằng hữu, cam nguyện tự vẫn, là một hảo hán lừng lẫy tiếng tăm.

    Hồ Thanh Ngưu cười khẩy:

    - Hảo hán ư? Thiên hạ đầy rẫy hảo hán, ta làm sao mà chữa bệnh cho mọi hảo hán kia chứ? Y không phải là người của phái Võ Đang thì còn được, chứ đã thuộc danh môn chính phái, sao lại còn đến cầu xin kẻ tà ma ngoại đạo như ta chữa trị?

    Thường Ngộ Xuân nói:

    - Mẫu thân của Vô Kỵ là con của Bạch Mi Ưng Vương Ân giáo chủ, y có một nửa là người của bổn giáo.

    Hồ Thanh Ngưu nghe vậy, lòng chợt dịu lại, gật đầu:

    - À, ngươi đứng dậy đi, nếu y là cháu ngoại của Bạch Mi Ưng Vương Thiên Ưng giáo thì lại là chuyện khác.

    Rồi tới trước mặt Trương Vô Kỵ, ôn tồn nói:

    - Này cháu, từ trước tới nay ta vẫn có cái lệ nhất quyết không chữa trị cho những ai xưng là hiệp nghĩa, danh môn chính phái. Mẹ cháu là người trong bổn giáo, chữa trị cho cháu không phải là phá lệ. Ông ngoại cháu Bạch Mi Ưng Vương vốn là một trong tứ đại hộ pháp của Minh giáo, sau ông ấy sáng lập Thiên Ưng giáo vì bất hòa với các huynh đệ chứ không phải phản lại Minh giáo, cũng coi như một chi phái của Minh giáo. Cháu phải đáp ứng một điều, sau khi được chữa khỏi, cháu phải về với ông ngoại Bạch Mi Ưng Vương Ân giáo chủ của cháu, từ khi nhập Thiên Ưng giáo sẽ không còn là đệ tử phái Võ Đang nữa.

    Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, Thường Ngộ Xuân đã nói:

    - Sư bá, không được đâu. Trương Tam Phong Trương chân nhân có nói trước với đệ tử rằng “Hồ tiên sinh không được ép Vô Kỵ nhập giáo, dù có chữa cho nó khỏi bệnh, phái Võ Đang cũng không chịu ơn quý giáo”.

    Hồ Thanh Ngưu lông mày dựng ngược, cả giận, giọng gay gắt:

    - Hừ, Trương Tam Phong là cái thá gì? Lão coi thường chúng ta như thế, tại sao ta phải vì lão mà tốn sức? Này cháu, ý của cháu thế nào?

    Trương Vô Kỵ biết rằng âm độc đã lan khắp lục phủ ngũ tạng trong cơ thể, ngay cả thái sư phụ công lực thâm hậu tới mức ấy mà đành bó tay, mình có sống được hay không, hoàn toàn do vị thần y này có chịu chữa trị hay không. Nhưng thái sư phụ lúc chia tay đã dặn kỹ nhất thiết không được sa chân vào Ma giáo, rơi vào cảnh vạn kiếp không thoát ra được. Tuy chưa biết Ma giáo xấu xa tới mức nào, vì sao mỗi lần nhắc tới Ma giáo, thái sư phụ và các vị sư bá sư thúc đều ghét cay ghét đắng, nhưng cậu vô cùng tôn kính thái sư phụ, tin chắc rằng lời thái sư phụ nói quyết không sai, thì nghĩ thầm: “Thà Hồ tiên sinh không chịu chữa, hàn độc phát tác, ta chết đi còn hơn là làm trái lời dạy của thái sư phụ”. Thế là cậu nói to:

    - Hồ tiên sinh, mẫu thân cháu là đường chủ của Thiên Ưng giáo, cháu nghĩ rằng Thiên Ưng giáo chắc cũng tốt lắm. Nhưng thái sư phụ từng dặn cháu, nhất thiết không được gia nhập Ma giáo, cháu đã hứa rồi, há có thể làm trái lời hứa? Tiên sinh không chịu trị thương cho cháu thì đành vậy. Nếu cháu tham sống sợ chết, miễn cưỡng nghe lời tiên sinh, dù tiên sinh có chữa lành cho cháu, trên đời này cũng chỉ thêm một kẻ bất tín bất nghĩa, phỏng ích lợi gì.

    Hồ Thanh Ngưu cười thầm trong bụng: “Thằng nhóc này huênh hoang, làm ra vẻ anh hùng hảo hán, ta không chữa trị cho ngươi, thử xem ngươi có quỳ xuống cầu xin hay không?” Đoạn quay sang nói với Thường Ngộ Xuân:

    - Nó đã quyết ý không gia nhập bổn giáo, này Ngộ Xuân, ngươi hãy bảo nó đi ra, trong nhà Hồ Thanh Ngưu ta không thể có kẻ chết vì bệnh.

    Thường Ngộ Xuân vốn biết vị sư bá này tính cố chấp dị thường, đã nói một thì không thể hai, đã bảo không chịu chữa dù có cầu xin cũng vô ích, bèn quay sang nói với Trương Vô Kỵ:

    - Tiểu huynh đệ, Minh giáo tuy không đồng đạo với các nhân vật hiệp nghĩa trong danh môn chính phái, nhưng từ thời Đại Đường đến nay, đời nào trong Minh giáo cũng có anh hùng hảo hán. Huống hồ ông ngoại của đệ là giáo chủ Thiên Ưng giáo, mẫu thân của đệ là đường chủ của Thiên Ưng giáo, đệ hãy nghe lời Hồ sư bá đi, sau này Trương chân nhân có hỏi, để huynh chịu hết cho.

    Trương Vô Kỵ đứng thẳng lên, nói:

    - Thường đại ca, đại ca như thế là đã hết lòng hết dạ, thái sư phụ của tiểu đệ sẽ không trách gì đại ca.

    Nói đoạn Vô Kỵ hiên ngang đi ra cửa. Thường Ngộ Xuân hoảng sợ, vội hỏi:

    - Đệ đi đâu?

    Trương Vô Kỵ nói:

    - Nếu tiểu đệ chết ở Hồ Điệp cốc, e sẽ làm hổ danh Điệp Cốc Y Tiên mất.

    Rồi xăm xăm đi ra khỏi nhà.

    Hồ Thanh Ngưu cười khẩy, nói:

    - Kiến Tử Bất Cứu Hồ Thanh Ngưu lừng danh thiên hạ, số kẻ chết ở bên ngoài Hồ Điệp cốc này đâu phải chỉ có ngươi.

    Thường Ngộ Xuân không nghe ông ta nói gì, vội chạy theo bế thốc Vô Kỵ trở vào, thở hổn hển, nói:

    - Hồ sư bá, sư bá nhất định không chịu cứu y, phải không?

    Hồ Thanh Ngưu cười, đáp:

    - Ngoại hiệu của ta là Kiến Tử Bất Cứu, ngươi chưa biết hay sao mà còn hỏi.

    Thường Ngộ Xuân hỏi:

    - Thế còn vết thương trên người đệ tử, sư bá chịu cứu chữa chứ gì?

    Hồ Thanh Ngưu đáp:

    - Không sai.

    Thường Ngộ Xuân nói:

    - Được, đệ tử đã hứa với Trương chân nhân là sẽ cứu chữa tiểu huynh đệ này, quyết không thể để cho người trong danh môn chính phái chê rằng đệ tử Minh giáo nói xong nuốt lời. Đệ tử không cầu sư bá chữa trị cho mình mà hãy chữa trị cho tiểu huynh đệ này. Hai chúng tôi đổi mạng cho nhau, sư bá không thiệt gì cả.

    Hồ Thanh Ngưu nghiêm mặt nói:

    - Ngươi trúng phải “Tiệt tâm chưởng”, thương thế không nhẹ chút nào, nếu ta chữa trị ngay cho ngươi thì có thể khỏi hẳn. Quá bảy ngày thì chỉ giữ được mạng sống, chứ võ công thì không thể bảo toàn. Mười bốn ngày sau nếu không có lương y chữa cho, thương thế phát ra là hết cứu.

    Thường Ngộ Xuân nói:

    - Đó là công lao thấy chết không cứu của sư bá, đệ tử chết cũng chẳng oán hận.

    Trương Vô Kỵ kêu lên:

    - Cháu không cần tiên sinh cứu, cháu không cần tiên sinh cứu!

    Rồi quay sang nói với Thường Ngộ Xuân:

    - Thường đại ca, bộ đại ca nghĩ Trương Vô Kỵ là phường tiểu nhân đê hèn hay sao? Đại ca đem tính mạng của mình đổi mạng tiểu đệ, dù tiểu đệ có sống được cũng chẳng thấy thú vị gì nữa!

    Thường Ngộ Xuân không muốn tranh cãi, liền cởi thắt lưng trói Trương Vô Kỵ vào ghế. Vô Kỵ vội nói:

    - Đại ca không thả tiểu đệ ra, tiểu đệ sẽ chửi cho mà xem!

    Thấy Thường Ngộ Xuân không thèm lý tới, Trương Vô Kỵ liền lớn tiếng chửi:

    - Kiến Tử Bất Cứu Hồ Thanh Ngưu! Tiên sinh đúng là ngu như bò! Thậm chí không bằng súc sinh!

    Hồ Thanh Ngưu nghe thằng bé chửi bậy cũng chẳng giận, chỉ lẳng lặng nhìn nó.

    Thường Ngộ Xuân nói:

    - Hồ sư bá, Trương huynh đệ, xin cáo từ! Thường mỗ đi tìm thầy chữa bệnh đây!

    Hồ Thanh Ngưu cười khẩy, nói:

    - Ở tỉnh An Huy này chẳng có thầy lang nào ra hồn cả, mà nội trong bảy ngày chắc gì ngươi ra khỏi tỉnh An Huy.

    Thường Ngộ Xuân cười ha hả:

    - Có vị sư bá “Thấy chết không cứu”, thì cũng có sư điệt “Đáng sống không chết”!

    Nói đoạn y đường hoàng đi ra cửa.

    Hồ Thanh Ngưu cười khẩy:

    - Ngươi bảo lấy một mạng đổi một mạng, nhưng ta đã nhận lời đâu? Đã thế cả hai mạng ta đều không cứu.

    Tiện tay nhặt trên bàn một khúc sừng hươu, vù một tiếng ném theo trúng ngay huyệt ở kheo chân Thường Ngộ Xuân. Thường Ngộ Xuân kêu ối một tiếng, ngã lăn ra đất, không bò dậy được.

    Hồ Thanh Ngưu đến cởi dây trói cho Trương Vô Kỵ, nắm hai cổ tay nó định quẳng ra ngoài cho cả hai người Trương Vô Kỵ và Thường Ngộ Xuân muốn sống chết ra sao thì ra. Trương Vô Kỵ kêu lên:

    - Tiên sinh làm gì vậy?

    Chất hàn độc xông lên đầu não, Trương Vô Kỵ tức thời ngất đi.

    Hồi 12: Khu trừ âm độc ngấm vào cao hoang

    Hồ Thanh Ngưu vừa cầm cổ tay Trương Vô Kỵ liền thấy mạch đập rất lạ, bất giác kinh hãi vội ngưng thần nghe kỹ, nghĩ thầm: “Chất độc hàn thằng bé bị trúng thật cổ quái, không lẽ là bởi Huyền Minh thần chưởng? Chưởng pháp ấy thất truyền đã lâu, trên đời này làm gì có ai biết sử dụng?” Lại nghĩ: “Nếu không phải Huyền Minh thần chưởng, thì là cái gì? Âm hàn độc địa thế này, không có môn chưởng lực nào khác vào đây cả. Thằng bé trúng độc đã lâu mà vẫn chưa chết, kể cũng lạ kỳ. Đúng rồi, lão đạo Trương Tam Phong dùng công lực thâm hậu của mình giúp nó sống lay lắt, bây giờ chất âm độc đã ngấm sâu vào lục phủ ngũ tạng, bám chắc trong đó, chỉ có thần tiên mới cứu được thôi”.

    Nghĩ vậy, Hồ Thanh Ngưu đặt Trương Vô Kỵ nằm trên ghế. Một lúc sau, Trương Vô Kỵ dần dần tỉnh lại, thấy Hồ Thanh Ngưu ngồi trước mặt, đăm đăm nhìn ngọn lửa trong lò sắc thuốc mà suy nghĩ xuất thần; Thường Ngộ Xuân vẫn nằm trên đám cỏ trước cửa, ba người ba tâm sự khác nhau, chẳng ai lên tiếng.

    Hồ Thanh Ngưu suốt đời say mê y thuật, nhiều chứng bệnh ngỡ là bó tay nhưng đến Hồ Thanh Ngưu đều được chữa khỏi, nên ông ta mới được tôn là Y Tiên. Chữa bệnh mà đạt tới chữ “Tiên”, tức là tuyệt kỹ thần kỳ lắm. Nhưng chất hàn độc của Huyền Minh thần chưởng thì cả đời Hồ Thanh Ngưu chưa gặp lần nào, mà trường hợp này trúng độc rồi lại dây dưa mấy năm chưa chết, để ngấm sâu vào lục phủ ngũ tạng, thì lại càng chưa từng thấy. Hồ Thanh Ngưu vốn dĩ quyết không chữa trị cho Trương Vô Kỵ, nhưng gặp được chứng bệnh quái dị khó thấy trong đời này thì có khác gì tửu đồ gặp rượu ngon, kẻ háu ăn ngửi thấy mùi thịt nướng, làm sao có thể bỏ qua?

    Nghĩ ngợi hồi lâu, cuối cùng Hồ Thanh Ngưu tìm ra một cách hay: “Ta cứ chữa cho nó khỏi cái đã, sau sẽ giết nó đi”.

    Thế nhưng khu trừ chất âm độc đã ngấm sâu vào lục phủ ngũ tạng Trương Vô Kỵ thật phải chẳng dễ. Hồ Thanh Ngưu suy nghĩ hơn hai canh giờ rồi lấy ra mười hai miếng đồng mỏng mảnh, vận lực cắm vào các huyệt như huyệt Trung Cực ở bên dưới đan điền, huyệt Thiên Đột ở dưới cổ, huyệt Kiên Tỉnh ở vai, tổng cộng mười hai chỗ. Huyệt Trung Cực là nơi giao hội của kinh Túc Tam Âm và mạch Nhâm; huyệt Thiên Đột là nơi giao hội của hai mạch Âm Duy và mạch Nhâm; huyệt Kiên Tỉnh là nơi giao hội của các kinh Thủ Túc Thiếu Dương, Túc Dương Minh, mạch Dương Duy. Mười hai miếng đồng cắm xong, thì thập nhị kinh thường mạch và kỳ kinh bát mạch trong cơ thể Trương Vô Kỵ đã được gián cách với nhau.

    Trong cơ thể con người: tâm, phế, tì, can, thận gọi là ngũ tạng, cộng với tâm bào là sáu thứ thuộc âm. Vị, đại tràng, tiểu tràng, đởm, bàng quang, tam tiêu gọi là lục phủ - sáu thứ này thuộc dương. Lục phủ ngũ tạng cộng với tâm bào thành thập nhị kinh thường mạch. Còn tám mạch: Nhâm, Đốc, Xung, Đới, Âm Duy, Dương Duy, Âm Kiều, Dương Kiều, không thuộc âm dương chính kinh, không phối hợp biểu lý, đi theo các đường riêng, được gọi là kỳ kinh bát mạch.

    Sau khi đã gián cách thường mạch và kỳ kinh trên cơ thể Trương Vô Kỵ làm cho chất âm độc trong lục phủ ngũ tạng không còn thông với nhau nữa, Hồ Thanh Ngưu mới dùng ngải hơ nóng, gọi là Vân Môn, Trung Phủ ở vai, tiếp đến các huyệt từ cánh tay xuống ngón cái như Thiên Phủ, Hiệp Bạch, Xích Trạch, Khổng Tối, Liệt Khuyết, Kinh Cừ, Đại Uyên, Ngư Tế, Thiếu Thương mười một huyệt này thuộc “Thủ thái âm phế kinh” nhằm tiêu giảm chất âm độc trong phổi của Trương Vô Kỵ. Cách này lấy nhiệt công hàn, nỗi đau đớn mà Trương Vô Kỵ phải chịu đựng cũng chẳng khác gì lúc chất âm độc phát tác. Cứu xong “Thủ thái âm phế kinh”, Hồ Thanh Ngưu cứu tiếp “Túc dương minh vị kinh”, “Thủ quyết âm tâm bào kinh”…

    Khi ra tay, Hồ Thanh Ngưu chẳng buồn để ý tới việc Trương Vô Kỵ có đau hay không, cứ dùng ngải cứu tới mức chỗ nào trên cơ thể Trương Vô Kỵ cũng đen sì. Trương Vô Kỵ thì cố không tỏ ra hèn yếu, nghĩ thầm: “Người tưởng ta rên rỉ, ta sẽ không rên một tiếng”. Cậu bé cứ cười nói như không, đàm luận với Hồ Thanh Ngưu về bộ vị của kinh mạch huyệt đạo. Trương Vô Kỵ tuy không biết y lý, nhưng nghĩa phụ Tạ Tốn từng truyền thụ cho cậu phép điểm huyệt, giải huyệt, thuật chuyển di huyệt đạo nên vị trí các huyệt đạo, cậu nắm rất vững. Kiến thức của Trương Vô Kỵ về huyệt đạo so với vị đương thế thần y này dĩ nhiên là thô thiển, nhưng lại liên quan đến y lý là môn mà Hồ Thanh Ngưu cực kỳ tâm đắc. Thế là Hồ Thanh Ngưu vừa cứu ngải, vừa giảng giải thao thao bất tuyệt.

    Trương Vô Kỵ nghe mười chỉ hiểu được một, nhưng để tỏ ra là “phái Võ Đang ta cũng am hiểu”, chốc chốc cậu lại bình phẩm chen vào một câu hoặc tranh biện vài lời. Hồ Thanh Ngưu cố giảng giải ngắn gọn, đến khi nhận ra “thằng nhãi này thật ra chẳng biết gì hết, chỉ nói lăng nhăng” thì cũng đã tốn bao nhiêu là nước bọt. Tuy nhiên, ở chốn thâm sơn cùng cốc này, trừ vài đứa tiểu đồng sắc thuốc, nấu cơm, Hồ Thanh Ngưu đâu có ai làm bạn, hôm nay có thằng bé này đến nói nọ nói kia về huyệt đạo, kể cũng thú.

    Đợi cứu xong mấy trăm huyệt trên Thập nhị kinh thường mạch thì trời đã sẩm tối. Tiểu đồng dọn cơm ra bàn, lại bưng một mâm cơm rau dưa ra bên ngoài cho Thường Ngộ Xuân. Đêm đó Thường Ngộ Xuân phải ngủ ở bên ngoài, Trương Vô Kỵ cũng không ngỏ lời cầu xin Hồ Thanh Ngưu. Lúc đi ngủ, cậu ra nằm cạnh Thường Ngộ Xuân, hai người cùng nằm trên bãi cỏ để tỏ ý hoạn nạn cùng chịu. Hồ Thanh Ngưu giả bộ không nhìn thấy, nhưng trong bụng nghĩ thầm: “Thằng bé này quả khác hẳn những đứa trẻ khác”.

    Sáng hôm sau, Hồ Thanh Ngưu lại tốn nửa ngày để cứu các huyệt đạo trên kỳ kinh bát mạch của Trương Vô Kỵ. Thập nhị kinh thường mạch giống như các dòng sông chảy không ngừng nghỉ, còn kỳ kinh bát mạch lại giống như hồ như biển, súc tích tàng trữ; thành thử việc khu trừ âm độc trong kỳ kinh bát mạch còn khó hơn nhiều. Hồ Thanh Ngưu suy nghĩ viết một toa thuốc khước tà phù chính, bổ hư tả thực, dùng cách lấy độc trị độc. Trương Vô Kỵ uống xong thang thuốc đó rét run cầm cập nửa ngày, nhưng sau đó tinh thần khỏe khoắn hẳn lên.

    Buổi chiều, Hồ Thanh Ngưu lại châm cứu cho Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ cố nói khích, chọc tức để Hồ Thanh Ngưu chữa bệnh cho Thường Ngộ Xuân, nhưng y chẳng thèm lý đến, chỉ lạnh lùng nói:

    - Cái ngoại hiệu Điệp Cốc Y Tiên của ta có điểm danh bất phó thực. Chữ “Tiên” đâu dễ xưng bừa. Người ta gọi ta là Kiến Tử Bất Cứu, ta lại thích hơn.

    Lúc này Hồ Thanh Ngưu đang châm huyệt Ngũ Khu ở giữa hông và đùi của Trương Vô Kỵ, huyệt này là nơi giao hội giữa kinh Túc Thiếu Dương và mạch Đới, bên cạnh thủy đạo cách một tấc năm phân. Trương Vô Kỵ nói:

    - Mạch Đới trên cơ thể con người là kỳ quái nhất. Hồ tiên sinh biết không, có một số người không có mạch Đới.

    Hồ Thanh Ngưu ngạc nhiên, nói:

    - Đừng nói bậy! Không có mạch Đới sao được?

    Trương Vô Kỵ vốn chỉ quen miệng nói lăng nhăng, lại tiếp:

    - Thiên hạ rộng lớn chuyện gì cũng có, huống hồ mạch Đới cháu thấy chẳng có tác dụng gì lắm.

    Hồ Thanh Ngưu nói:

    - Mạch Đới khá kỳ diệu, bảo nó kém tác dụng là sai. Các y sư tầm thường không hiểu sự kỳ diệu bên trong, châm cứu cắt thuốc không khỏi sai lầm. Ta có viết cuốn Đới mạch luận, ngươi lấy ra đọc thì biết.

    Đoạn Hồ Thanh Ngưu vào gian trong lấy ra một cuốn sách mỏng, giấy đã vàng, đưa cho Trương Vô Kỵ.

    Trương Vô Kỵ giở trang đầu, thấy viết: “Thập nhị kinh và kỳ kinh bát mạch đều đều lưu chuyển lên xuống. Riêng mạch Đới bắt đầu từ bụng dưới, phía dưới mạng sườn, đi quanh thân mình một vòng, như cái đai thắt lưng. Ba mạch Xung, Nhâm, Đốc cùng bắt đầu nhưng đi ba hướng khác nhau, một gốc mà ba ngọn, cùng nối với mạch Đới…”

    Tiếp đó bình thuật các sai lầm trong y thư cổ kim. Sách Thập tứ kinh phát huy nói mạch Đới chỉ có bốn huyệt. Sách Châm cứu đại thành nói mạch Đới có sáu huyệt; thực ra có đến mười huyệt, trong đó hai huyệt khi ẩn khi hiện, lúc có lúc không, rất khó nhận biết. Trương Vô Kỵ đọc tiếp xuống dưới, tuy không hiểu tinh túy bên trong nhưng cũng biết cuốn sách này kiến thức bất phàm, bèn đem những chỗ Hồ Thanh Ngưu phê bình tiền nhân ra thỉnh giáo.

    Hồ Thanh Ngưu thích thú, vừa châm vừa giải thích, khi đã dùng kim vàng châm đủ mười huyệt trên mạch Đới, ông ta mới ngồi nghỉ một lát, nói:

    - Ta còn có một bộ Tý ngọ châm cứu kinh ghi tất cả những điều tâm huyết của ta.

    Đoạn vào gian trong mang ra bộ y thư gồm mười hai quyển viết tay.

    Hồ Thanh Ngưu biết thằng bé này chưa biết gì về y lý, nhưng ông ta ẩn cư nơi hoang cốc đã lâu, cũng cảm thấy quá tịch mịch. Những kẻ trước đây tới cầu chữa bệnh tuy rất đông, song ai ai cũng chỉ khen ông ta y thuật như thần, những lời nói ấy hai chục năm nay nghe đã chán ngấy từ lâu. Thực ra điều làm cho ông ta thấy hãnh diện với người đời không phải là y thuật tinh tường, mà là ông đã có rất nhiều phát hiện về y học mà tiền nhân chưa tìm biết. Hồ Thanh Ngưu tự biết những thành tựu đó rất lớn lao, song chỉ có thể một mình thưởng thức, không khỏi tịch mịch. Bây giờ gặp cậu bé thích đọc trước tác của mình, ông ta lờ mờ cảm thấy có người tri kỷ nên đem bộ sách đắc ý ra khoe.

    Trương Vô Kỵ giở ra xem, thấy mỗi trang đều chi chít những chữ nhỏ bằng con ruồi, viết theo lối chữ tiểu khải; bộ vị huyệt đạo, phân lượng thuốc men, thời khắc và độ nông sâu của mũi châm, cái gì cũng ghi chú rõ ràng. Cậu bé chợt nghĩ: “Mình phải để ý xem có đoạn nào nói về cách chữa trị cho Thường đại ca hay không?” Giở đến quyển thứ chín nhan đề Chương Võ học, trong đó mục Chưởng thương trị pháp, thấy có Hồng sa chưởng, Thiết sa chưởng, Độc sa chưởng, Miên chưởng, Khai sơn chưởng, Phá bi chưởng… các triệu chứng thương tích do các thứ chưởng lực gây nên, cách cấp cứu, cách điều trị, tất cả đều được ghi tỉ mỉ. Đọc hết một trăm tám mươi loại chưởng lực, quả nhiên mới thấy “Tiệt tâm chưởng”.

    Trương Vô Kỵ cả mừng, lập tức chăm chú đọc kỹ một lượt. Trong sách miêu tả kỹ càng về Tiệt tâm chưởng, nhưng về cách chữa trị lại nói quá sơ lược, rằng “cần châm bốn huyệt Tử Cung, Trung Đình, Quan Nguyên, Thiên Trì; tùy theo sự biến đổi của âm dương ngũ hành, căn cứ ngũ hậu hàn, thử, táo, thấp, phong; tùy ngũ tình hỷ, nộ, ưu, tư, khủng của người bệnh mà bốc thuốc”.

    Nên biết y đạo Trung Hoa biến hóa đa đoan, không quy định cứng nhắc; cùng một chứng bệnh, người thầy thuốc phải căn cứ trời nóng lạnh, ngày đêm, đầy vơi, trước sau, động tĩnh, trong ngoài, nam nữ, lớn bé… tùy từng trường hợp mà đưa ra cách chữa trị, thay đổi thế nào là tùy thầy thuốc chứ ít có quy định sẵn. Bởi vậy, thầy thuốc giỏi với thầy thuốc xoàng cách nhau một trời một vực. Sự vi diệu đó dĩ nhiên Trương Vô Kỵ không biết được, chỉ đọc cách chữa vài lần cho nhớ mà thôi. Phần cuối cùng trong mục Chưởng thương trị pháp là Huyền Minh thần chưởng, thì sau khi miêu tả các triệu chứng của người bị thương, đến chỗ “Cách chữa trị” chỉ có một chữ “Không”.

    Trương Vô Kỵ gấp bộ y kinh lại, cung kính đặt trên bàn, nói:

    - Bộ Tý ngọ châm cứu kinh này của Hồ tiên sinh bác đại tinh thâm, vãn bối đọc mười chỉ hiểu được một. Mong được chỉ giáo, thế nào là “Ngự âm dương ngũ hành chi biến”?

    Hồ Thanh Ngưu giải thích mấy câu, chợt vỡ lẽ, nói:

    - Ngươi định hỏi cách trị thương cho Thường Ngộ Xuân chứ gì? Ha ha, chuyện khác thì ta nói, chứ chuyện ấy thì không đâu.

    Trương Vô Kỵ không còn cách nào khác, đành tự mình tra cứu các loại y thư, Hồ Thanh Ngưu để cậu muốn đọc gì thì đọc, không hề cấm đoán. Trương Vô Kỵ miệt mài tìm tòi suốt ngày đêm, quên ăn quên ngủ, chẳng những đọc hết hơn một chục trước tác do Hồ Thanh Ngưu biên soạn, mà ngay cả các sách kinh điển y học như Hoàng Đế nội kinh, Hoa Đà nội chiêu đồ, Vương Thúc Hòa mạch kinh, Tôn Tư Mạo thiên kim phương, Thiên kim dực, Vương Đạo ngoại đài bí yếu đều đọc hết, chỉ cốt tìm ra ý nghĩa các câu liên quan đến cách chữa trị Tiệt tâm chưởng. Mỗi ngày cậu được Hồ Thanh Ngưu châm cứu cho hai lần, vào giờ Thìn và giờ Thân, để trừ âm độc.

    Cứ thế mấy hôm liền, Trương Vô Kỵ vùi đầu đọc đủ loại sách, tuy nhớ được một số y lý, bài thuốc, nhưng cái tinh diệu của y đạo, cậu tuổi nhỏ, học vấn nông cạn, làm sao trong vài ngày đủ hiểu được? Bấm đốt ngón tay, cậu tới Hồ Điệp cốc đã sáu ngày. Hồ Thanh Ngưu từng nói thương thế của Thường Ngộ Xuân nếu do ông ta chữa trị thì nội trong bảy ngày sẽ khỏi hẳn, ngoài bảy ngày dù có thể khỏi, song võ công cũng mất hết. Thường Ngộ Xuân đã nằm ngoài bãi cỏ trước nhà sáu ngày đêm, đến hôm nay trời lại đổ mưa. Hồ Thanh Ngưu thấy chỗ Thường Ngộ Xuân nằm trũng xuống, bùn nước lẫn lộn, nhưng vẫn tuyệt nhiên không lý tới. Trương Vô Kỵ cả giận, nghĩ thầm: “Mình đọc các sách thuốc, trừ các cuốn do Hồ Thanh Ngưu soạn, sách nào cũng viết rằng thầy thuốc phải có lòng nhân, cứu đời cứu người; tiên sinh bụng đầy y thuật mà thấy chết không cứu, làm sao có thể gọi là lương y chứ?”

    Buổi chiều, trời mưa càng to hơn, sấm chớp ầm ầm, loang loáng. Trương Vô Kỵ nghiến răng, nghĩ thầm: “Mình phải đánh liều chữa cho Thường đại ca thôi, không còn cách nào khác”. Vô Kỵ lấy trong tủ thuốc của Hồ Thanh Ngưu tám cây kim châm bằng vàng, ra ngồi bên cạnh Thường Ngộ Xuân, nói:

    - Thường đại ca, mấy hôm rồi tiểu đệ cố sức đọc các loại sách thuốc của Hồ tiên sinh, tuy chưa thông hiểu nhưng thời gian khẩn cấp lắm rồi nên không thể dây dưa thêm nữa, tiểu đệ chỉ còn cách mạo hiểm tự châm cho Thường đại ca, nếu chẳng may có chuyện gì, tiểu đệ nhất định cũng không sống một mình đâu.

    Thường Ngộ Xuân cười ha hả, nói:

    - Tiểu huynh đệ sao lại nói thế? Hãy mau châm kim cho huynh đi. Nếu may trời cho khỏi được, tức là Hồ sư bá bị một phen bẽ mặt. Nếu châm vài mũi huynh đã chết, thì cũng còn hơn là sống trong cái vũng bùn này.

    Trương Vô Kỵ hai tay run run, nhìn kỹ, mò đúng huyệt đạo của Thường Ngộ Xuân, lập cập cắm một mũi kim vào huyệt Quan Nguyên. Cậu chưa hề tập luyện thuật châm cứu, động tác đâm kim hết sức vụng về, chẳng qua bắt chước cách làm của Hồ Thanh Ngưu đối với cậu hàng ngày mà thôi. Kim của Hồ Thanh Ngưu làm bằng vàng ròng, hơi mềm, phải là người có nội lực thâm hậu mới sử dụng được. Trương Vô Kỵ dùng sức hơi quá, kim liền cong vẹo đi, không vào sâu nữa, đành phải rút ra đâm lại. Đúng thuật châm cứu thì khi rút kim ra không có chuyện chảy máu, đằng này do cậu lúng túng đâm không đúng chỗ, nên từ huyệt Quan Nguyên máu chảy trào ra. Huyệt Quan Nguyên nằm ở bụng dưới, là chỗ yếu hại của cơ thể, máu chảy không cầm được khiến Trương Vô Kỵ càng cuống quýt lo, chưa biết phải làm sao.

    Bỗng nghe sau lưng có tiếng cười ha hả, Trương Vô Kỵ ngoảnh lại thấy Hồ Thanh Ngưu tay chắp sau lưng, dáng vẻ tự đắc, nhìn hai tay cậu dính máu mà cười hì hì. Trương Vô Kỵ vội hỏi:

    - Hồ tiên sinh, huyệt Quan Nguyên của Thường đại ca, máu cứ chảy thế này thì phải làm sao?

    Hồ Thanh Ngưu đáp:

    - Dĩ nhiên ta biết cầm máu cách nào, nhưng việc gì phải nói cho ngươi hay?

    Trương Vô Kỵ ngang nhiên nói:

    - Thôi bây giờ một mạng đổi một mạng, xin tiên sinh mau cứu Thường đại ca, vãn bối sẽ chết ngay trước mặt tiên sinh.

    Hồ Thanh Ngưu lạnh lùng nói:

    - Ta đã nói không chữa là không chữa, Hồ Thanh Ngưu này chỉ thấy chết không cứu, chứ đâu phải quỷ Vô Thường đi đòi mạng, ngươi chết thì có ích lợi gì cho ta? Dù có chết mười Trương Vô Kỵ, ta cũng không cứu một Thường Ngộ Xuân.

    Trương Vô Kỵ biết có nói thêm với Hồ Thanh Ngưu cũng chỉ tốn thời gian vô ích, nghĩ thầm loại kim này mềm quá, mình không dùng được, lúc này cũng không biết tìm kim bằng đồng bằng sắt ở đâu, nghĩ một chút, liền bẻ cành tre, dùng dao chẻ nhỏ, vót nhọn, đâm vào bốn huyệt Tử Cung, Trung Đình, Quan Nguyên, Thiên Trì trên người Thường Ngộ Xuân. Kim tre đâm vào, quả nhiên không thấy máu chảy. Một lúc sau, Thường Ngộ Xuân nôn ra mấy ngụm máu đen.

    Trương Vô Kỵ không biết sau khi mình châm lung tung như thế khiến cho thương thế của Thường Ngộ Xuân nặng lên, hay là đã có công hiệu trục được huyết ứ trong cơ thể ra ngoài, lúc quay đầu nhìn Hồ Thanh Ngưu, thấy nét mặt “Y Tiên” có vẻ giễu cợt, song cũng có vài phần tán thưởng. Trương Vô Kỵ biết mấy mũi kim tre vừa châm không sai lạc, bèn chạy vào nhà lục lọi y thư, suy nghĩ thật kỹ, rồi viết một toa thuốc. Cậu tuy đọc trong sách biết vị thuốc nào chữa bệnh gì, song chưa hề biết hình dạng thế nào là sinh địa, sài hồ, ngưu tất, mật gấu, bèn đem toa thuốc ấy giao cho tiểu đồng, nói:

    - Nhờ cậu theo toa này sắc giùm một thang.

    Tiểu đồng đưa toa thuốc trình cho Hồ Thanh Ngưu xem, hỏi có nên sắc hay không. Hồ Thanh Ngưu khịt mũi, nói:

    - Nực cười, nực cười! Ngươi theo đó mà sắc, uống xong mà bệnh nhân không chết thì trên đời này không còn ai chết nữa.

    Trương Vô Kỵ vội giật lại toa thuốc, giảm phân lượng mỗi vị còn một nửa. Tiểu đồng theo đó cắt thuốc đem sắc, thành một tô thật đậm đặc.

    Trương Vô Kỵ bưng thuốc tới bên miệng Thường Ngộ Xuân, nghẹn ngào nói:

    - Thường đại ca, uống thang thuốc này vào lành hay dữ, tiểu đệ quả tình chưa biết.

    Thường Ngộ Xuân cười, nói:

    - Tốt lắm, tốt lắm! Cái này gọi là thằng thong manh chữa cho thằng mù.

    Đoạn nhắm mắt, ngửa cổ uống một hơi cạn sạch.

    Tối hôm ấy, Thường Ngộ Xuân bụng đau quằn quại, nhiều lần nôn ra máu. Trong mưa gió sấm chớp, Trương Vô Kỵ hầu hạ suốt đêm bên cạnh y. Sáng sớm hôm sau, mưa tạnh, Thường Ngộ Xuân bớt thổ huyết, máu nôn ra cũng từ đen chuyển thành tím, từ tím chuyển sang đỏ dần.

    Thường Ngộ Xuân vui mừng, nói:

    - Tiểu huynh đệ, thuốc đệ bốc hóa ra uống không chết người, huynh cảm thấy bệnh đỡ hẳn đi.

    Trương Vô Kỵ cả mừng, nói:

    - Thuốc của tiểu đệ, huynh uống thấy sao?

    Thường Ngộ Xuân cười, nói:

    - Tiên phụ biết trước có ngày thế này, nên mới đặt tên ta là Thường Ngộ Xuân, nghĩa là thường thường sẽ gặp được bậc danh y diệu thủ hồi xuân như tiểu đệ chẳng hạn. Có điều là tiểu đệ cắt thuốc hơi bá đạo, uống vào bụng mà cứ như có mấy chục con dao cắt xén trong ấy.

    Trương Vô Kỵ nói:

    - Vâng, vâng, chắc là liều lượng hơi nặng.

    Kỳ thực liều lượng cậu định ra không phải “hơi nặng”, mà là nặng gấp mấy lần, lại không thêm tá dược điều lý trung hòa nên mấy vị đó công phạt quá mạnh. Tuy cậu tìm được trong sách của Hồ Thanh Ngưu nói vị thuốc nào trị bệnh gì, nhưng đạo dùng thuốc “quân thần tá sứ” thì cậu hoàn toàn chưa biết, nếu Thường Ngộ Xuân không có thể chất cường tráng hơn người, hẳn là đã ô hô ai tai rồi.

    Hồ Thanh Ngưu rửa mặt, chải đầu xong, thong thả bước ra, thấy Thường Ngộ Xuân sắc diện hồng hào, tinh thần sảng khoái, không khỏi giật mình nghĩ thầm: “Một tên thông minh to gan, một tên thể chất tráng kiện, thương thế do Tiệt tâm chưởng gây ra thế mà trị được rồi”.

    Trương Vô Kỵ viết thêm toa thuốc bổ, nào là nhân sâm, lộc nhung, thủ ô, phục linh, bao nhiêu vị thuốc bổ đều có. Kho dược liệu trong nhà Hồ Thanh Ngưu có đủ các vị quý hiếm, dược lực cực mạnh. Uống thuốc bổ mười ngày, Thường Ngộ Xuân thấy thần thái sung mãn, võ công trở lại như xưa, bèn nói với Trương Vô Kỵ:

    - Tiểu huynh đệ, nay thương thế của ta đã lành hẳn, đêm đêm đệ ra nằm dầm sương với huynh như thế đủ rồi. Chúng mình chia tay thôi.

    Hơn một tháng qua, Trương Vô Kỵ và Thường Ngộ Xuân cùng chung hoạn nạn, xả thân cho nhau, thành hảo hữu sinh tử có nhau, nay phải chia tay, thật quyến luyến không muốn rời. Nhưng biết rằng Thường Ngộ Xuân chẳng thể ở mãi tại đây, Vô Kỵ đành nuốt lệ chấp nhận.

    Thường Ngộ Xuân nói:

    - Tiểu huynh đệ đừng buồn, ba tháng nữa huynh sẽ trở lại thăm, nếu lúc đó chất hàn độc trong cơ thể đệ đã hết, huynh sẽ dẫn đệ trở về núi Võ Đang với thái sư phụ.

    Gã vào trong nhà bái biệt Hồ Thanh Ngưu, nói:

    - Đệ tử thương thế đã đỡ, tuy là do Trương huynh đệ ra tay chữa trị, nhưng toàn là nhờ y thư của sư bá chỉ dẫn, lại uống không biết bao nhiêu dược liệu quý của sư bá.

    Hồ Thanh Ngưu gật đầu, nói:

    - Không sao cả. Thương thế của ngươi tuy đã khỏi, nhưng tuổi thọ của ngươi bị giảm mất bốn chục năm đó.

    Thường Ngộ Xuân không hiểu, hỏi lại:

    - Vì sao vậy?

    Hồ Thanh Ngưu nói:

    - Cứ theo thể chất của ngươi mà nói, ngươi có thể sống ít ra đến tám mươi tuổi. Nhưng tiểu tử dùng thuốc sai lầm, lúc châm kim lại sai cách, từ nay trở đi, mỗi lần mưa gió sấm chớp, ngươi sẽ thấy toàn thân đau nhức, đại khái là khoảng bốn mươi tuổi sẽ đi gặp Diêm Vương.[50]

    Thường Ngộ Xuân cười ha hả, hiên ngang nói:

    - Đại trượng phu giúp đời báo quốc, nếu lập nên công trạng thì ba mươi tuổi cũng đã đủ, cần gì đến bốn mươi? Còn như sống một đời tầm thường, dù có thọ trăm tuổi cũng chỉ là tốn cơm tốn gạo thôi.

    Hồ Thanh Ngưu gật gật đầu, không nói gì thêm.

    Trương Vô Kỵ tiễn chân ra tận Hồ Điệp cốc khẩu, Thường Ngộ Xuân giục cậu trở lại, hai người mới gạt lệ chia tay. Trương Vô Kỵ thầm lập chí: “Mình chữa trị, cắt thuốc sai lầm khiến cho Thường đại ca bị giảm thọ bốn mươi năm, sau này mình phải tìm mọi cách giúp Thường đại ca phục hồi như ban đầu mới được!”

    Từ đó Hồ Thanh Ngưu ngày ngày châm cứu, cắt thuốc cho Trương Vô Kỵ để tiêu trừ âm độc trong cơ thể. Còn Trương Vô Kỵ ngày đêm miệt mài đọc y thư, ghi nhớ dược điển, gặp chỗ nào khó hiểu lại thỉnh giáo Hồ Thanh Ngưu. Đó là những điều tâm đắc của Hồ Thanh Ngưu nên y chỉ giáo tỉ mỉ. Có lần Trương Vô Kỵ nêu ra câu hỏi lạ lùng mà Hồ Thanh Ngưu chưa bao giờ nghĩ tới. Ban đầu Hồ Thanh Ngưu định bụng chữa khỏi cho Trương Vô Kỵ rồi sẽ giết luôn, nhưng bây giờ nghĩ lại, nếu thằng bé chết đi, nơi đây sẽ chẳng còn ai đàm đạo hợp ý nên không còn tính đến việc khỏi sớm chết sớm nữa.

    Cứ như thế mấy tháng, một hôm Hồ Thanh Ngưu bỗng phát hiện huyệt Quan Xung ở bên cạnh ngón tay vô danh, huyệt Thanh Lãnh Uyên ở cách khoeo tay hai tấc, huyệt Ti Trúc Không ở chỗ lõm sau lông mày của Trương Vô Kỵ khi châm vào không có phản ứng gì cả. Ba huyệt ấy đều thuộc “Thủ Thiếu Dương tam tiêu kinh”, Tam tiêu chia ra Thượng tiêu, Trung tiêu, Hạ tiêu là một trong lục phủ ngũ tạng, y thư xưa nay viết rằng rất huyền diệu bí ẩn, khó bề tìm được[51].

    Hồ Thanh Ngưu khổ công trăn trở suy nghĩ, dùng đủ mọi cách khéo léo vẫn không trục được chất âm độc đã ngấm vào Tam tiêu của Trương Vô Kỵ. Sau hơn mười ngày, tóc ông ta bạc thêm nhiều sợi mà vẫn chưa tìm ra.

    Trương Vô Kỵ thấy Hồ Thanh Ngưu suy tư khổ não như thế thì không khỏi cảm kích, áy náy không yên, nói:

    - Hồ tiên sinh, tiên sinh đã tận tâm kiệt lực trừ độc cho vãn bối. Trên đời này ai ai cũng phải chết, chất âm độc ngấm vào Tam tiêu vãn bối không khu trừ được, âu cũng là số phận an bài, tiên sinh đừng tốn phí quá nhiều tâm sức cho việc cứu mạng vãn bối mà tổn hại thân thể.

    Hồ Thanh Ngưu hừ một tiếng, giọng lạnh nhạt:

    - Ngươi coi thường Minh giáo, Thiên Ưng giáo quá đấy, không đời nào ta muốn cứu mạng ngươi. Có điều nếu ta không chữa khỏi cho ngươi, hóa ra Điệp Cốc Y Tiên là kẻ vô năng hay sao? Sau khi ta chữa khỏi cho ngươi, ta sẽ giết ngươi.

    Trương Vô Kỵ lạnh người nghe Hồ Thanh Ngưu nói một cách thản nhiên, tựa hồ chuyện ấy chẳng đáng gì, song cậu biết những điều ông ta đã nói ra miệng thì cũng quyết không thay đổi, bèn thở dài, nói:

    - Vãn bối xem ra chất hàn độc trong cơ thể không cách nào khu trừ, tiên sinh khỏi cần ra tay, vãn bối cũng sẽ chết. Người đời hình như chỉ mong mọi người khác chết sạch đi thì họ mới vui lòng. Người ta học võ luyện công, chẳng phải là để giết người khác đó sao?

    Hồ Thanh Ngưu nhìn ra khoảng không xa vắng bên ngoài, xuất thần hồi lâu, buồn bã nói:

    - Hồi trẻ ta miệt mài học y thuật, lập chí giúp đời cứu người, rồi ra mới biết mình lầm. Ta đã cứu sống một người, hắn lại trở mặt hại ta một cách tàn bạo. Có một thiếu niên ở Miêu Cương, Quý Châu, bị trúng Kim Tàm trùng độc, là loại chất kịch độc, ai trúng phải thể nào cũng chết, song trước khi chết phải chịu các cơn đau đớn khủng khiếp. Ta suốt ba ngày đêm không ngủ, hao tổn bao tâm lực cứu được y, cùng y kết nghĩa kim lan, tình như ruột thịt, lại còn hứa gả em gái cho hắn. Ai ngờ về sau hắn hại chết em gái ta. Ngươi có biết hắn là ai không? Hiện nay hắn chính là thủ lĩnh lừng lẫy tiếng tăm của một danh môn chính phái đó.

    Trương Vô Kỵ thấy bắp cơ trên mặt Hồ Thanh Ngưu giật giật, thần sắc hết sức đau khổ, thì trong lòng cảm thông, nghĩ thầm: “Thì ra Hồ tiên sinh từng gặp không ít thảm cảnh trong đời, nên mới có cái tính thấy chết không cứu, bèn hỏi:

    - Kẻ vong ân bội nghĩa, lòng lang dạ thú ấy là ai vậy?

    Hồ Thanh Ngưu nghiến răng nói:

    - Hắn… hắn chính là Tiên Vu Thông, chưởng môn phái Hoa Sơn.

    Trương Vô Kỵ hỏi:

    - Sao tiên sinh không đi tìm hắn trả thù?

    Hồ Thanh Ngưu thở dài:

    - Trước sau ta đã ba lần tìm hắn, đều bị thảm bại. Lần sau cùng tưởng đã mất mạng dưới tay hắn rồi. Người ấy võ công cao cường, lại cơ trí tuyệt luân, ngoại hiệu của hắn là Thần Cơ Tử mà. Ta tài nghệ quả thực thua xa, không phải đối thủ của hắn. Huống hồ hắn làm chưởng môn phái Hoa Sơn, người đông thế mạnh. Minh giáo ta trong mấy năm nay chia năm xẻ bảy, tàn sát lẫn nhau, ai ai cũng chỉ bo bo lo giữ thân, không trợ giúp nhau. Hơn nữa, ta cũng ngại đi nhờ vả người khác. Mối thù này, chỉ e không thể báo được. Ôi, tiểu muội khốn khổ của ta ơi, ta mồ côi từ bé, chỉ có hai huynh muội nương tựa lẫn nhau…

    Nói đến đó, nước mắt rưng rưng.

    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Hồ tiên sinh thực ra vốn không phải là kẻ lạnh nhạt, vô tình”. Hồ Thanh Ngưu đột nhiên gay gắt nói:

    - Chuyện ta kể hôm nay, từ rày không được nhắc đến, nếu ngươi tiết lộ cho người khác biết, ta sẽ làm cho ngươi sống không nổi, chết không xong đó.

    Trương Vô Kỵ định cãi vài câu, nhưng động lòng trắc ẩn, biết Hồ tiên sinh gặp thảm sự, nên cậu chẳng chấp nê, chỉ nói:

    - Vãn bối sẽ không nhắc đến làm gì.

    Hồ Thanh Ngưu xoa xoa đầu cậu, thở dài:

    - Tội nghiệp, tội nghiệp!

    Nói đoạn quay vào gian trong.

    Từ khi nói chuyện với Trương Vô Kỵ, lại thấy khó khu trừ chất hàn độc đã ngấm vào Tam tiêu của thằng bé, dù có đem y thuật tinh thâm chữa trị cũng chỉ sống thêm được vài năm thì Hồ Thanh Ngưu thay đổi cả tâm tính. Tuy ông ta không thổ lộ thêm thân thế và tâm sự của mình, nhưng thấy thằng bé nhanh hiểu ý người, lại sống chốn núi rừng tịch mịch, có nó bầu bạn thật là hay, thế nên ngày ngày Hồ Thanh Ngưu chỉ dẫn cho Trương Vô Kỵ về sự biến đổi âm dương ngũ hành trong y lý, thuật châm cứu, xem mạch, cắt thuốc. Trương Vô Kỵ miệt mài học hỏi. Hồ Thanh Ngưu thấy thằng bé ngộ tính cao lạ lùng, đọc các bộ y thư, như Hoàng Đế hà mô kinh, Tây Phương Tử Minh Đường cứu kinh, Thái Bình thánh huệ phương, Châm giáp ất kinh, Thiên kim phương đều am tường, tâm đắc, thì than thầm: “Thông minh tài trí như ngươi, lại được bậc minh sư trăm đời có một là ta chỉ giáo, thì chưa đến hai mươi tuổi ngươi đã sánh ngang Hoa Đà, Biển Thước. Tiếc rằng… ôi, tiếc rằng…”

    Ý của Hồ Thanh Ngưu muốn nói rằng dù Trương Vô Kỵ học có giỏi y thuật bao nhiêu đi chăng nữa, nhưng chỉ sống ít lâu, vậy sự khổ học kia phỏng có ích gì? Trương Vô Kỵ thì trong lòng đã chủ tâm quyết ý nắm chắc y thuật cao minh để khi gặp lại Thường Ngộ Xuân sẽ chữa cho y trở lại sức khỏe bình thường, lại chữa cho Du Đại Nham có thể tự mình đi lại, không cần nhờ ai nâng dắt. Đó là hai đại tâm nguyện của Trương Vô Kỵ, sau khi hoàn tất thì dù có chết ngay cũng không có gì ân hận.

    (còn tiếp)

    Nguồn: Ỷ Thiên Đồ Long Ký. Tiểu thuyết của Kim Dung - từng được dịch ra tiếng Việt là Cô gái Đồ Long. Đây là cuốn cuối cùng trong bộ tiểu thuyết Xạ điêu tam khúc. Hương Cảng Thương báo xuất bản lần đầu năm 1961 tại Hồng Kông. Lê Khánh Trường & Lê Việt Anh dịch từ nguyên tác. NXB Văn học, 2002.

    Mục lục: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54

    Bài viết liên quan

  • Nam Đế Vạn Xuân
    • Nam Đế Vạn Xuân

      Với hơn 500 trang, 15 hồi gay cấn, sinh động trong từng câu thoại của các nhân vật lịch sử, Tiểu thuyết Lịch sử Nam Đế Vạn Xuân nằm trong bộ Tiểu thuyết dài tập Vương triều tiền Lý của Nhà văn Phùng Văn Khai. Nam Đế Vạn Xuân tái hiện một cách sinh động lịch sử nước nhà xoay quanh triều đại của nhà nước Vạn Xuân (544-602) giúp chúng ta hiểu và tự hào hơn về lịch sử đánh giặc hào hùng của dân tộc. Với bộ nhân vật lịch sử đồ sộ của cả ta lẫn địch như: Lý Nam Đế, Tinh Thiều, Phạm Tu, Triệu Túc, Triệu Quang Phục, Phùng Thanh Hòa… hay Lương Vũ Đế, Vũ lâm hầu Tiêu Tư, Dương Phiêu, Lý Tắc… tạo nên rất nhiều tình tiết móc ngoặc, những cuộc đấu trí gay cấn hay những lời thoại sinh động của từng nhân vật. Nam Đế Vạn Xuân như một con tàu thời gian đưa ta ngược trở về từng quãng của lịch sử cách đây gần 1500 năm từ khi Lý Bí tu tập tại chùa Cổ Pháp đến thời điểm làm Giám quân ở Đức Châu và cuối cùng là đuổi giặc Lương lên ngôi tại điện Vạn Thọ. Đó cũng là lần đầu tiên Việt Nam có hoàng đế và niên hiệu Thiên Đức là niên hiệu riêng đầu tiên để chứng tỏ nước ta đã giành lại độc lập từ tay Trung Quốc.

    Tìm kiếm

    Lượt truy cập

    • Tổng truy cập57,865,865

    Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

       

      Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

      *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

    Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

      WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

      Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

      The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

      Enjoy life, enjoy Arita experience!