Tìm kiếm

Lượt truy cập

  • Tổng truy cập57,865,956

Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

     

    Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

    *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

    WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

    Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

    The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

    Enjoy life, enjoy Arita experience!

Tiểu thuyết

Ỷ Thiên Đồ Long ký

Kim Dung

  • Thứ sáu, 08:02 Ngày 11/12/2020
  • Ỷ Thiên Đồ Long ký

    Nàng mải nghĩ, Giác Viễn đọc lại nhỏ, nên nàng nghe câu được câu mất. Dưới ánh trăng, bỗng thấy Trương Quân Bảo cũng đang ngồi xếp chân bằng tròn chăm chú lắng nghe, Quách Tương nghĩ thầm: “Bất kể lão nói đúng hay không đúng, mình cứ việc nhớ cho kỹ. Vị hòa thượng này đã khiến Tiêu Tương Tử bị chấn thương, Hà Túc Đạo phải rút lui, là điều chính mình mục kích. Vậy pháp môn võ công mà lão đọc đây hẳn phải có lý lắm”. Thế là nàng lại lắng nghe và cố nhớ.

    Giác Viễn cứ nhớ tới đâu đọc thuộc lòng tới đó, có lúc lẫn vào lời văn của kinh Lăng Già, kể về việc Phật tổ ở đảo Lăng Già lên núi thuyết pháp. Là bởi bộ kinh “Cửu dương chân kinh” được viết xen vào chỗ trống của cuốn kinh Lăng Già, Giác Viễn thì cứ rập khuôn mà đọc thuộc lòng, nên mới có sự xen lẫn như vậy. Kinh Lăng Già vốn là văn tự Thiên Trúc, điều Giác Viễn đọc lại là lời dịch, đôi chỗ lẫn lộn, nghe cứ câu được câu mất, may nhờ thông minh đĩnh ngộ, nên Quách Tương vẫn hiểu được vài phần.

    Mặt trăng chếch non Đoài, bóng người cứ dài dần ra, tiếng đọc kinh của Giác Viễn cũng thấp dần, nghe chẳng rõ nữa. Quách Tương liền lên tiếng:

    - Đại sư, đại sư đã mệt suốt cả ngày rồi, xin hãy nằm nghỉ một chút.

    Giác Viễn tựa hồ không nghe thấy lời khuyên của nàng, vẫn tiếp tục đọc:

    - … Mượn lực của người, khí phát ra từ sống lưng. Vì sao khí từ sống lưng phát ra? Khí trầm xuống dưới, do hai vai thu vào cột sống, dồn xuống thắt lưng. Khí này từ trên đi xuống, gọi là hợp. Từ thắt lưng lan ra cột sống, ra hai cánh tay, khí này từ dưới đi lên, gọi là khai. Hợp là thu vào, khai là phóng ra. Hiểu được khai hợp là biết âm dương…

    Tiếng tụng kinh của Giác Viễn càng lúc càng nhỏ, cuối cùng im bặt, hình như lão hòa thượng đã ngủ thiếp đi.

    Quách Tương và Trương Quân Bảo không dám kinh động, chỉ lặng lẽ ngồi ôn lại lời kinh.

    Trên trời trăng đã lặn, sao đã mờ. Mây đen kéo tới bao phủ tứ phía, mặt đất tối như mực. Chừng bằng thời gian ăn xong một bữa, phía đông sáng dần, chỉ thấy Giác Viễn nhắm mắt, ngồi bất động, nét mặt như lộ vẻ tươi cười.

    Trương Quân Bảo chợt thấy phía sau một gốc cổ thụ thoáng một bóng người, hình như đó là vạt áo cà sa màu vàng. Chàng giật mình, hỏi to:

    - Ai đó?

    Chỉ thấy một hòa thượng cao gầy từ phía sau thân cây bước ra. Chính là thủ tọa La Hán đường Vô Sắc thiền sư.

    Quách Tương vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, hỏi:

    - Đại hòa thượng sao cứ đuổi theo mãi thế? Lẽ nào cứ phải bắt hai thầy trò họ về chùa mới được hay sao?

    Vô Sắc thiền sư đáp:

    - Thiện tai, thiện tai! Lão tăng còn biết phải trái, đâu phải là kẻ chỉ biết câu nệ giới luật xưa cũ. Lão tăng tới đây từ lúc nửa đêm, nếu định động thủ thì khỏi cần chờ tới lúc này. Này Giác Viễn sư đệ, Vô Tướng thiền sư suất lĩnh đệ tử Đạt Ma đường đang đuổi về phía đông, thầy trò sư đệ hãy mau mau chạy về phía tây!

    Chỉ thấy Giác Viễn cứ cúi đầu nhắm mắt, vẫn chưa tỉnh giấc.

    Trương Quân Bảo bước lại, thưa:

    - Sư phụ tỉnh dậy thôi, có thủ tọa La Hán đường đang nói chuyện với sư phụ đó.

    Giác Viễn vẫn bất động. Trương Quân Bảo kinh hãi, vội rờ tay vào trán sư phụ, thấy lạnh giá như băng, thì ra Giác Viễn đã viên tịch từ lúc nào rồi. Trương Quân Bảo đau đớn phục xuống, gọi to:

    - Sư phụ! Sư phụ!

    Tiếng gọi của chàng làm sao có thể khiến sư phụ tỉnh lại kia chứ?

    Vô Sắc thiền sư chắp tay hành lễ, miệng niệm kệ:

    - Chư phương vô vân ế, tứ diện giai thanh minh, vi phong xuy hương khí, chúng sơn tịnh vô thanh.

    Kim nhật đại hoan hỉ, xả tức nguy thúy thân. Vô sân diệc vô ưu, ninh bất đương hân khánh?[12]

    Đoạn Vô Sắc thiền sư nhẹ nhàng rời chân.

    Trương Quân Bảo khóc một hồi, Quách Tương cũng chảy không ít lệ. Tăng chúng Thiếu Lâm tự khi viên tịch đều được hỏa táng; hai người bèn nhặt củi, chất lại hỏa thiêu Giác Viễn.

    Quách Tương nói:

    - Này Trương đệ, tăng chúng Thiếu Lâm tự sẽ không buông tha đệ đâu, đệ phải hết sức thận trọng đó. Chúng ta chia tay ở đây, ngày sau ắt sẽ có dịp gặp lại.

    Trương Quân Bảo ứa lệ, nói:

    - Quách tỷ tỷ đi đâu? Còn tiểu đệ biết đâu mà đi đây?

    Quách Tương nghe Trương Quân Bảo hỏi đi đâu thì nàng cũng mủi lòng, nói:

    - Tỷ tỷ thì góc biển chân trời, hành tung bất định; tỷ tỷ cũng chưa biết mình sẽ đi đâu. Đệ thì tuổi còn nhỏ, lại chưa duyệt lịch trong giang hồ. Tăng chúng Thiếu Lâm tự đang lùng sục tróc nã đệ. Vậy…

    Nói tới đây nàng rút cái vòng vàng đeo ở cổ tay ra, trao cho Trương Quân Bảo dặn:

    - Đệ hãy cầm cái này, đến thành Tương Dương tìm phụ mẫu tỷ tỷ, họ sẽ che chở cho đệ. Được phụ mẫu tỷ tỷ che chở thì dù tăng chúng Thiếu Lâm tự tàn ác đến mấy, đệ cũng khỏi lo.

    Trương Quân Bảo rưng rưng lệ đỡ lấy chiếc vòng. Quách Tương lại nói:

    - Đệ hãy thưa với phụ mẫu tỷ tỷ, rằng tỷ tỷ rất khỏe và vui, để họ khỏi nặng lòng thương nhớ. Phụ thân tỷ tỷ rất quý các thiếu niên anh hùng, thấy đệ là người tài năng, không chừng sẽ nhận đệ làm đệ tử. Còn em trai của tỷ tỷ rất thật thà trung hậu, nhất định sẽ thân với Trương đệ. Riêng chị gái của tỷ tỷ tính tình nóng nảy, có điều gì không bằng lòng là chị ấy bốp chát, chẳng nể nang gì đâu. Nhưng đệ chỉ cần nghe theo chị ấy là ổn thỏa.

    Nói xong nàng quay mình đi liền.

    Trương Quân Bảo cảm thấy trời đất bao la mà mình không chốn nương thân. Chàng đứng rất lâu bên chỗ hỏa táng sư phụ, rồi mới bước đi. Đi hơn mười trượng, chàng bỗng quay lại, lấy đôi thùng sắt của sư phụ gánh lên vai, rồi thong thả bước. Giữa chốn núi rừng hoang vu, một thiếu niên cao gầy lầm lũi trơ trọi đi về hướng tây, trông tội nghiệp vô cùng.

    Đi đã nửa tháng, tới địa giới Hồ Bắc, còn cách thành Tương Dương không bao xa. Tăng chúng Thiếu Lâm tự vẫn không đuổi kịp chàng. Đó là nhờ Vô Sắc thiền sư ngầm hỗ trợ, chỉ dẫn tăng chúng đuổi ngược đường về hướng đông nên càng ngày càng cách xa chàng.

    Chiều một ngày nọ, chàng tới chân một dải núi lớn, chỉ thấy cây cối um tùm rậm rạp, sơn thế cực kỳ hùng vĩ. Hỏi khách bộ hành ngang qua mới biết đây là núi Võ Đang.

    Chàng ngồi tựa lưng vào một tảng đá dưới chân núi nghỉ ngơi. Chợt thấy hai người nhà quê, một nam một nữ, sánh vai nhau đi trên con đường mòn ngang qua chỗ chàng, thái độ thân mật rõ là một cặp vợ chồng trẻ. Cô vợ cứ luôn miệng trách chồng, còn anh chồng thì cúi đầu lầm lũi mà đi.

    Cô vợ nói:

    - Chàng là nam nhi đại trượng phu, không tự lập thân, cứ đi nhờ vả người anh rể nên mới bị họ sỉ nhục như vậy. Vợ chồng mình đủ chân đủ tay, tự làm lấy mà ăn, tuy rau dưa đạm bạc nhưng được cái tự do ung dung. Đằng này chàng chẳng có chút chí hướng gì hết, sống trên đời cứ như cái giá áo túi cơm vậy.

    Anh chồng ậm ừ mấy tiếng. Cô vợ lại nói:

    - Cổ nhân có câu “Cùng lắm là chết, chết thì hết chuyện”, hà tất chàng cứ phải dựa dẫm kẻ khác mới sống được hay sao?

    Anh chồng bị vợ trách một hồi, không dám nói lại một câu, ngượng đỏ cả mặt, cứ thế mà đi.

    Những lời cô vợ kia nói, câu nào cũng buộc Trương Quân Bảo phải suy nghĩ. “Chàng là nam nhi đại trượng phu, không tự lập thân… nên mới bị họ sỉ nhục như vậy… Cổ nhân có câu ‘Cùng lắm là chết, chết thì hết chuyện’, hà tất chàng cứ phải dựa dẫm kẻ khác mới sống được hay sao?” Chàng cứ ngẩn ra nhìn theo cặp vợ chồng kia. Bỗng thấy anh chồng ngẩng đầu lên, thẳng lưng lại, nói mấy câu gì đó, rồi hai vợ chồng cười rộ một hồi; tựa hồ anh chồng đã quyết chí tự lập nên cả hai mới vui vẻ như thế.

    Trương Quân Bảo nghĩ bụng: “Quách cô nương bảo rằng bà chị của cô nương tính tình nóng nảy, nói năng bốp chát chẳng nể nang ai, mình phải nhất nhất nghe lời chị ta. Mình là nam nhi đại trượng phu, hà tất phải cúi đầu nín nhịn, ủy khúc cầu toàn ư? Cặp vợ chồng nông phu kia còn biết nỗ lực tự cường, Trương mỗ ta há phải làm nô lệ cho người sai khiến?”

    Nghĩ như thế, tâm ý đã quyết, chàng đứng dậy, quẩy đôi thùng đi lên núi, tìm một cái hang, khát uống nước suối, đói ăn trái cây, chăm chỉ luyện tập theo “Cửu dương chân kinh” do sư phụ Giác Viễn truyền thụ.

    Mấy năm sau, chàng chợt ngộ ra: “Đạt Ma tổ sư là người Thiên Trúc, nếu soạn bộ kinh bằng văn tự Trung Hoa ta thì lời văn ắt thô sơ. Đằng này bộ ‘Cửu dương chân kinh’ lời văn cô đọng thâm thúy, người ngoại quốc quyết không thể sáng tác được như thế. Đây hẳn là sáng tác của các nhân sĩ Trung Châu, đa phần là các tăng lữ Thiếu Lâm tự; rồi mượn danh Đạt Ma tổ sư mà chép xen vào cuốn kinh ‘Lăng Già’ bằng văn tự Thiên Trúc”. Giác Viễn đã tin tưởng hoàn toàn vào lời văn trong cuốn kinh. Trương Quân Bảo lúc này còn ít tuổi, cũng không dám quả quyết rằng suy đoán của mình là đúng.

    Chàng được sư phụ Giác Viễn truyền thụ đã lâu nên bộ “Cửu dương chân kinh” nhớ được năm, sáu phần, sau mười mấy năm trời, nội lực tăng tiến rất nhiều, chàng lại đọc nhiều kinh Đạo tạng, hiểu biết rất sâu về thuật luyện khí của Đạo gia. Một bữa nọ đang lững thững dạo chơi trong núi, ngẩng lên nhìn trời thấy mây trôi như nước chảy, Trương Quân Bảo chợt ngộ ra, trở vào hang vắt óc suy nghĩ bảy ngày bảy đêm, cuối cùng lĩnh hội được đạo lý trong võ công là lấy nhu khắc cương, bèn ngẩng mặt lên trời mà cười vang.

    Đấy là tiếng cười của một vị đại tông sư thừa tiên khải hậu, người đã dựa vào quyền pháp mà mình sở ngộ, đạo lý “Xung hư viên thông” của Đạo gia và nội công nói trong bộ “Cửu dương chân kinh” mà phát minh, sáng lập nên phái Võ Đang - một môn phái võ công rạng rỡ ngàn thu.

    Về sau chàng du ngoạn lên phía bắc, đến Bảo Minh, thấy ba đỉnh núi sừng sững giữa biển mây, về võ học lại ngộ thêm, bèn lấy tự hiệu Tam Phong, và Trương Tam Phong trở thành kỳ nhân độc nhất vô nhị trong lịch sử võ học Trung Hoa.

    Hồi 3: Bảo đao bách luyện sinh huyền quang

    Hoa nở hoa tàn, hoa tàn hoa nở. Chàng thiếu niên năm nào rồi cũng thành bậc tiền bối trên giang hồ; thiếu nữ má hồng rốt cuộc cũng thành lão bà tóc bạc.

    Bấy giờ là năm Chí Nguyên thứ hai thời Nguyên Thuận Đế, triều đại nhà Tống bị diệt vong đến lúc này đã hơn năm mươi năm.

    Đang giữa tháng Ba, cuối mùa xuân; ở miền duyên hải Giang Nam có một lam y tráng sĩ trạc ba mươi tuổi, chân đi hài cỏ, rảo bước trên đường cái quan. Thấy trời đã ngả hoàng hôn, tráng sĩ không để ý thưởng thức hương sắc tươi thắm của cảnh vật mùa xuân ven đường, mà cứ vừa đi vừa suy tính: “Hôm nay hai mươi bốn tháng Ba rồi, đến mồng chín tháng Tư chỉ còn mười bốn ngày, ta phải nhanh chân mới kịp về tới núi Võ Đang mừng đại thọ ân sư chín mươi tuổi”.

    Tráng sĩ họ Du, tên Đại Nham, là đệ tử thứ ba của tổ sư phái Võ Đang Trương Tam Phong. Đầu năm nay, Du Đại Nham phụng mệnh sư phụ đi Phúc Kiến diệt trừ một bọn đạo tặc chuyên giết hại lương dân. Nghe tin Du Đại Nham tới, chúng liền ẩn náu một nơi, tạm ngưng hoạt động. Du Đại Nham phải tốn hơn hai tháng mới tìm ra sào huyệt của chúng, liền tới khiêu chiến, sử dụng Huyền tư đao pháp do sư phụ truyền dạy, đến chiêu thứ mười một thì giết chết tên đầu đảng, giải tán băng cướp. Lúc đầu dự tính mươi ngày là xong việc, ai ngờ mất đứt hơn hai tháng trời; bấm đốt ngón tay, đã quá gần tới ngày mừng thọ sư phụ chín mươi tuổi, vì thế Đại Nham vội vã từ Phúc Kiến trở về, hôm nay đã tới phía nam sông Tiền Đường, tỉnh Chiết Đông.

    Chàng rảo bước một hồi, thấy đường mỗi lúc một hẹp dần, bên phải giáp bờ biển, thấy có nhiều mảnh ruộng vuông vắn mỗi chiều bảy tám trượng, trông phẳng và sáng như gương. Đại Nham đã đi khắp nam bắc Trường Giang, mắt thấy nhiều thứ, song đồng ruộng kỳ dị thế này thì chưa gặp bao giờ. Hỏi dân địa phương, họ Du bất giác phì cười khi biết đó là các ruộng muối. Diêm dân[13] dẫn nước bể vào ruộng, phơi nắng gió cho khô bớt, lại dẫn vào ruộng khác, nước có độ mặn hơn, cuối cùng nước bay hơi hết, họ sẽ cào lấy muối hạt. Du Đại Nham nghĩ thầm: “Mình ăn muối ba mươi năm, không ngờ phải tốn bao công sức mới có được hạt muối”.

    Đang đi, bỗng thấy trên con đường nhỏ phía tây có hơn hai chục người quang gánh đi tới. Du Đại Nham nhìn kỹ, thấy họ đều mặc y phục màu xanh ngắn tay, đội nón lá, gánh hai thúng muối. Chàng biết nhà đương cục bạo ngược, thu thuế muối rất nặng, nên mặc dù ở ngay ven biển nhưng dân chúng cũng không sao mua nổi muối quan mà ăn, phải mua muối của dân buôn lậu (tránh thuế nên rẻ). Du Đại Nham đoán kia là nhóm buôn lậu muối, người nào người nấy vạm vỡ, đòn gánh trên vai họ có cái lạ, không phải bằng tre, đen thui và thẳng đơ, hình như là các cây côn sắt. Gánh muối của họ nặng hơn hai trăm ký mà họ đi cứ vùn vụt. Du Đại Nham nghĩ thầm: “Đám buôn lậu muối này tay nào cũng biết võ công. Nghe nói ở Giang Nam có phái Hải Sa buôn lậu muối, thanh thế rất lớn, phái đó có nhiều danh gia võ học nhưng chẳng mấy khi những hơn hai chục cao thủ tụ tập thành một bọn như đám này”. Giả sử lúc khác, hẳn Đại Nham quyết tìm cho ra manh mối, nhưng bây giờ chàng còn phải về cho kịp dự lễ chúc thọ sư phụ, chẳng để tâm chuyện trời ơi đất hỡi làm gì. Nghĩ thế, Đại Nham rảo bước thật nhanh.

    Gần tối, chàng tới trấn Am Đông, huyện Dư Diêu, từ đây qua sông Tiền Đường là tới Lâm An, rẽ sang phía tây bắc, qua hai tỉnh Giang Tây, Hồ Nam mới về đến núi Võ Đang ở tỉnh Hồ Bắc. Buổi tối không có thuyền đưa khách qua sông, Đại Nham đành vào một tiểu khách điếm trấn Am Đông nghỉ tạm.

    Cơm nước xong,chàng vừa định đi nằm, bỗng nghe ồn ào ngoài sân khách điếm - có nhiều người tới trọ. Những người kia toàn nói giọng Chiết Đông, song trung khí rất mạnh, đủ hiểu là dân võ nghệ. Chàng ló đầu nhìn ra, mới hay chính là đám buôn lậu muối đã gặp dọc đường. Du Đại Nham chẳng để ý nữa, lên giường ngồi xếp bằng tròn luyện khí hành công ba lần rồi mới ngủ.

    Nửa đêm, bỗng nghe phòng bên cạnh có tiếng lịch kịch nhè nhẹ, Du Đại Nham tỉnh giấc ngay. Có tiếng nói nhỏ: “Bọn ta cứ lẳng lặng mà đi, đừng lên tiếng khiến người khách phòng bên hay biết, khỏi sinh rắc rối”. Cả đám không nói gì, chỉ khẽ mở cửa đi ra sân. Du Đại Nham nhìn qua cửa sổ, thấy đám buôn lậu muối quảy gánh rời khách điếm. Đại Nham nhớ đến câu nói ban nãy “Bọn ta cứ lẳng lặng mà đi, đừng lên tiếng khiến người khách phòng bên hay biết, khỏi sinh rắc rối”, thì nghĩ thầm: “Đám buôn lậu muối này lén lén lút lút thế này, hẳn định gây trò xấu xa gì đây. Mình đã biết, không thể không ngăn cản. Ví thử ta ngăn cản chúng hãm hại người lương thiện, cứu được vài mạng người, thì dù có lỡ ngày chúc thọ ân sư, ân sư cũng không nỡ trách cứ ta”. Nghĩ vậy, Du Đại Nham liền đeo túi binh khí lên vai, vọt qua cửa sổ, nhảy lên bờ tường.

    Nghe tiếng chân người đi về hướng đông bắc, Du Đại Nham thi triển khinh công đuổi theo. Đêm nay mây phủ đầy trời, trăng sao mất dạng, trong bóng tối thấp thoáng hơn hai chục bóng người gồng gánh đi như bay trên bờ ruộng muối. Du Đại Nham nghĩ thầm: “Đám buôn lậu muối lên đường giữa đêm hôm là chuyện rất thường; nhưng tên nào tên ấy võ công cao cường, nếu chúng định câu kết nhau làm trò phi pháp, đừng nói vào nhà phú ông ăn trộm, có muốn cướp phá ngân khố, quan quân cũng chẳng cản nổi; hà tất chúng phải đi buôn lậu muối, kiếm chút lợi nhỏ? Chắc bên trong có mưu đồ gì đây?”

    Không đầy nửa canh giờ, đám buôn lậu muối đã đi được hơn hai chục dặm. Du Đại Nham dùng khinh công bám theo, không phát ra một tiếng động; đám buôn lậu kia tựa hồ mải lo việc hệ trọng, cứ mải miết đi không hề ngoái lại, nên chẳng biết có người dõi theo. Lúc này cả bọn đã tới sát bờ biển, tiếng sóng vỗ vào bờ đá ầm ào bất tuyệt.

    Đang đi, chợt nghe người dẫn đầu giậm chân một cái, tất cả dừng bước. Người đi đầu hỏi:

    - Ai đó?

    Trong bóng tối có tiếng khàn khàn hỏi lại:

    - Có phải là các bằng hữu có ba chấm thủy?

    Người đi đầu đáp:

    - Phải. Các hạ là ai?

    Du Đại Nham nghĩ bụng: “Các bằng hữu có ba chấm thủy là gì nhỉ?” Rồi chàng hiểu ngay, đúng là phái Hải Sa rồi. Ba chữ “phái Hải Sa”, mỗi chữ đều có ba chấm thủy bên cạnh. Giọng khàn khàn nói:

    - Vụ thanh đao Đồ Long, ta khuyên các vị đừng nhúng tay vào.

    Người đi đầu nói, giọng ngạc nhiên xen lẫn tức giận:

    - Các hạ cũng vì thanh đao Đồ Long mà tới đây ư?

    Người có giọng khàn khàn cười khinh khỉnh vài tiếng, không trả lời.

    Du Đại Nham đang nấp sau một tảng đá, liền vòng ra phía trước, chỉ thấy có một người cao gầy đứng chắn đường. Trong bóng tối nhìn không rõ diện mạo y, chỉ thấy y bận bộ đồ màu trắng; đi đêm mà bận y phục màu trắng, rõ ràng là kẻ rất tự phụ về võ công của mình.

    Chỉ nghe thủ lĩnh phái Hải Sa nói tiếp:

    - Thanh đao Đồ Long là của bổn phái, bị kẻ gian lấy trộm, đương nhiên bổn phái phải đòi lại.

    Kẻ bận đồ trắng lại cười khinh khỉnh ba tiếng “hi-hi-hi”, vẫn nghênh ngang chắn lối. Người đứng sau kẻ dẫn đường quát lớn:

    - Tránh ra, tên ác cẩu! Ngươi muốn chết phải khô… ông…

    Hắn chưa dứt câu đã rú lên và ngã ngửa ra phía sau. Cả đám thất kinh, trong bóng tối chỉ thấy cái bóng trắng loang loáng vài cái rồi biến mất liền.

    Bọn Hải Sa tới bên kẻ bị đánh ngã, thấy hắn nằm co quắp, đã tắt thở. Ai nấy vừa kinh hãi vừa tức giận, có mấy người đặt gánh xuống, đuổi theo kẻ bận đồ trắng nhưng y biến đi quá nhanh, trời lại tối đen, làm sao tìm ra y?

    Du Đại Nham nghĩ thầm: “Bạch y quái khách xuất thủ quá lẹ, đó là thủ pháp Đại lực Kim Cương trảo của phái Thiếu Lâm, nhưng trong bóng tối nhìn không rõ lắm. Nghe khẩu âm của y, rõ ràng y là người vùng biên giới tây bắc. Phái Hải Sa gây thù chuốc oán với kẻ thù ở nơi xa xôi thật đó!” Chàng vẫn nấp sau tảng đá, không dám cử động mạnh, sợ bọn Hải Sa phát hiện ra mình sẽ vô cùng nguy hiểm. Chỉ nghe người dẫn đầu nói:

    - Hãy đặt xác lão Tứ sang một bên, khi quay về sẽ mai táng sau, nhất quyết phải làm rõ vụ này.

    Đám buôn lậu đáp ứng, lại gánh muối đi tiếp.

    Du Đại Nham đợi họ đi xa mới tới gần tử thi xem xét, thấy cổ họng hắn có hai lỗ thủng nhỏ, máu tươi từ đó vẫn đang trào ra, lỗ thủng hiển nhiên là do ngón tay chộp vào. Chàng cảm thấy vụ này thật khó hiểu, bèn gia tăng cước bộ đuổi theo bọn Hải Sa.

    Đám kia đi được mấy dặm thì người dẫn đầu huýt một tiếng sáo, cả đám tản ra tứ phía, chậm rãi tiến lại gần một ngôi nhà lớn ở phía đông bắc. Du Đại Nham nghĩ thầm: “Thanh đao Đồ Long mà bọn họ nói đến, chẳng lẽ ở trong tòa nhà kia?” Chỉ thấy từ ống khói tòa nhà bốc lên một cột khói đen, khói cứ tụ lại hồi lâu không tản ra. Đám người buôn lậu muối đặt gánh xuống, mỗi tên lấy ra một cái gáo gỗ, múc từ trong sọt ra một thứ gì đó rồi rải tứ phía. Du Đại Nham thấy vật họ rải là chất bột trắng như tuyết, rõ ràng là muối biển, thì nghĩ thầm: “Rắc muối xuống đất làm gì nhỉ? Quái lạ thật! Mình về kể chuyện này với các sư huynh sư đệ, chắc họ chẳng tin”.

    Chàng thấy trong lúc rải muối bọn kia làm rất chậm và nhẹ, tựa hồ chúng sợ bị các hạt muối dính vào người vậy. Chàng chợt hiểu thì ra đấy là loại muối cực độc; bọn kia rải muối xung quanh ngôi nhà, hẳn là để hãm hại người bên trong. Chàng nghĩ thầm: “Đôi bên ai phải ai trái ta chưa cần biết, nhưng bọn này hành sự quỷ quái, quá ư mờ ám; dù thế nào ta cũng phải báo cho người trong nhà biết để họ khỏi bị chúng hãm hại mới được”. Thấy bọn kia còn rải muối ở phía trước nhà, chàng bèn vòng ra phía sau tòa nhà rồi vọt qua tường vào trong.

    Tòa nhà tính từ ngoài vào có năm dãy, tổng cộng ba bốn chục gian. Trong nhà tối om, chẳng thấy một ngọn đèn. Du Đại Nham nghĩ thầm: “Mình thấy có khói đặc bốc lên từ ống khói tòa nhà, thế nào cũng có người mới phải”, bèn ngẩng lên xác định rõ chỗ ống khói, rồi đi về phía đó, nghe từ trong đại sảnh vọng ra tiếng lửa cháy phừng phừng. Đại Nham vòng qua một cái vách chiếu, tiến vào đại sảnh, chợt lóa mắt và có một luồng khí nóng phả mạnh vào mặt, thì ra giữa sảnh có một lò lửa lớn xây bằng đá; lửa trong lò cháy ngùn ngụt, cạnh lò có ba người đang điều khiển ba cái bễ thổi khí vào lò. Trong lò đặt ngang một thanh đao đen đen dài chừng ba thước.

    Ba người kia đều ở tuổi lục tuần, y phục màu xanh, bị thủng lỗ chỗ vì các tàn lửa trong lò bắn ra làm cháy; cả ba lão tro bụi phủ đầy mặt, đang ra sức kéo bễ quạt gió vào lò, khiến ngọn lửa bốc cao năm thước, phát ra tiếng ù ù, liếm quanh thanh đao. Du Đại Nham cách xa lò lửa mấy trượng mà còn thấy nóng rực. Lửa trong lò từ màu đỏ đã chuyển sang màu xanh, từ màu xanh chuyển sang màu trắng, vậy mà thanh đao kia trước sau vẫn đen sì, không hề đỏ hồng lên chút nào.

    Giữa lúc ấy, từ trên mái nhà bỗng có tiếng quát lớn:

    - Hủy hoại bảo đao, thương thiên hại lý, hãy mau dừng tay!

    Nghe tiếng nói, Du Đại Nham nhận ra ngay đó chính là bạch y quái khách. Ba lão già kéo bễ luyện đao làm như không nghe thấy, càng kéo bễ gấp hơn. Chỉ nghe trên mái ba tiếng cười “hi-hi-hi” khinh khỉnh, ngoài hiên có tiếng động, rồi người kia nhảy vào sảnh.

    Trong sảnh lửa đang sáng rực, Du Đại Nham nhìn rõ bạch y quái khách là một người trạc tứ tuần, mặt trắng bệch pha màu xanh nhạt. Người ấy lạnh lùng nói:

    - Trường Bạch Tam Cầm, các vị giành được bảo đao Đồ Long sao không giữ gìn, lại cả gan dùng lửa lớn hủy hoại báu vật ấy?

    Vừa nói y vừa tiến lên.

    Lão già đứng phía tây trong nhóm Trường Bạch Tam Cầm bước tới, giơ năm ngón tay trái bổ thẳng vào mặt gã bạch y mặt trắng. Gã né mặt và tiến thêm một bước. Lão già đứng phía đông trong nhóm Trường Bạch Tam Cầm thấy gã đến gần mình, liền nhặt cây búa lớn cạnh lò, thét một tiếng, bổ mạnh xuống đỉnh đầu đối phương. Gã hơi né mình, cây búa bổ hụt xuống sàn nhà, chỉ nghe “bùng” một tiếng, đom đóm lửa văng tứ tung. Thì ra sàn nhà không phải được lát bằng gạch tầm thường mà bằng loại đá hoa cương cứng dị thường. Lão già đứng phía tây xáp tới giáp công, hai tay lão cứ như hai cái chân gà, múa lên múa xuống trông rất lợi hại.

    Du Đại Nham thấy võ công của gã bạch y hiển nhiên thuộc phái Thiếu Lâm nhưng xuất thủ cực kỳ hiểm độc, khác hẳn thủ pháp cương mãnh mà quang minh chính đại của phái Thiếu Lâm. Đấu qua vài hiệp, lão già sử dụng cây búa quát hỏi:

    - Các hạ là ai? Muốn cướp bảo đao cũng phải để lại danh tính cái đã.

    Gã bạch y cười nhạt mấy tiếng, không đáp, chỉ thấy gã xoay mình một cái, “rắc rắc” hai tiếng, hai cổ tay của lão già đứng phía tây đã bị đánh gãy, cây búa của lão già đứng phía đông thì văng lên, xuyên qua mái nhà, rồi rơi xuống sân trước, nghe “ịch” một tiếng nặng nề. Lão già bèn nhặt cây kìm đưa vào lò lửa gắp thanh đao ra.

    Lão già đứng phía nam trong nhóm Trường Bạch Tam Cầm thủ sẵn ám khí trong tay, chờ cơ hội tấn công địch thủ, nhưng gã bạch y xoay trở quá lẹ, khiến lão chưa ra tay được. Lúc này thấy lão già phía đông dùng kìm gắp thanh đao, lão già phía nam bèn thò luôn tay vào chộp lấy thanh đao lôi ra trước, từ bàn tay cầm đao bốc lên một đám khói trắng, ai nấy ngửi thấy mùi thịt khét lẹt, chứng tỏ lòng bàn tay lão ta bị cháy xém, song lão ta không chịu buông cây đao mà lùi vội về phía sau, thân hình lảo đảo chực ngã. Hình như cây đao quá nặng, lão ta phải dùng cả tay trái đỡ lấy sống đao, thế là lại nghe “xèo xèo”, lòng bàn tay trái của lão ta cũng bị cháy xém luôn.

    Mọi người kinh hãi, ngẩn cả ra, song lão ta vẫn hai tay giữ chặt cây đao, lao như điên ra cửa.

    Gã bạch y cười nhạt, nói:

    - Đâu có chuyện dễ thế!

    Đoạn gã duỗi dài cánh tay một cái đã chộp tới vai lão già. Lão già thuận tay chém một đao ngược ra sau lưng; lưỡi đao chưa tới nhưng hơi nóng đã phả vào mặt, tóc và lông mày gã bạch y đều quăn cả lại. Gã không dám chống đỡ, bèn dồn sức vào tay đẩy mạnh một cái, hất lão già về phía lò lửa.

    Du Đại Nham từ nãy đứng bên, thấy mấy kẻ kia tên nào cũng hung ác, mà sự việc chẳng dính dáng gì tới mình, nên không can thiệp. Nay thấy lão già cầm đao sẽ hóa thành tro nếu ngã vào lò lửa, phải tức thời ra tay cứu giúp, chàng liền tung mình vọt tới, người đang lơ lửng trên cao đã giơ tay túm tóc lão già nhấc lão lên, rồi chàng nhẹ nhàng khéo léo đặt chân xuống cạnh lò lửa.

    Gã bạch y và Trường Bạch Tam Cầm thấy chàng đứng trong sảnh từ lâu, không hề can dự, bỗng nhiên giở môn khinh công thượng thừa kia ra thì cả kinh. Gã bạch y tròn mắt, hỏi:

    - Vừa rồi có phải là thủ pháp “Thê vân túng” lừng danh thiên hạ hay chăng?

    Du Đại Nham thấy gã nói trúng biệt danh khinh công của mình thì giật nảy người, song bất giác cũng cảm thấy đắc ý, nghĩ thầm: “Võ công của phái Võ Đang ta lừng danh thiên hạ, ai mà chẳng biết”, bèn nói:

    - Không dám, xin hỏi quý tính đại danh của các hạ là chi? Chút võ công nhỏ mọn của tại hạ đâu có gì đáng nói?

    Gã bạch y đáp:

    - Hay, hay lắm! Khinh công của phái Võ Đang quả nhiên độc nhất vô nhị.

    Giọng điệu của gã tuy khen, song lại ra vẻ khinh mạn, tựa hồ bề trên khen kẻ dưới. Du Đại Nham tuy bực, nhưng nén giận, nói:

    - Dọc đường các hạ vung tay một cái đã đánh chết cao thủ của phái Hải Sa, võ công xuất quỷ nhập thần như thế khiến người ta khó bề đoán định.

    Gã bạch y giật mình, nghĩ bụng: “Hành động của ta hắn thấy rõ cả, trong khi ta không nhìn thấy hắn, chẳng hiểu lúc đó hắn nấp ở đâu?” Y lạnh lùng nói:

    - Phải, ngón võ công ấy của ta, người ngoài khó bề lĩnh hội; đừng nói các hạ, ngay cả lão già họ Trương chưởng môn phái Võ Đang cũng vị tất hiểu nổi.

    Du Đại Nham nghe gã kia sỉ nhục ân sư như vậy, nín nhịn sao nổi? Song đệ tử phái Võ Đang rất chú trọng tu tâm dưỡng tính, nên Đại Nham nghĩ thầm: “Y cố tình khiêu khích, chẳng hiểu có dụng ý gì? Người này võ công kỳ dị, ta không nên vì vài lời vô lễ mà gây thù chuốc oán cho phái Võ Đang”, bèn mỉm cười, nói:

    - Võ học thiên hạ vô cùng vô tận, chính phái với tà đạo nhiều vô số phái. Võ Đang chỉ là một hạt thóc trong vựa thóc võ lâm. Như võ công của các hạ đây, cứ tưởng thuộc phái Thiếu Lâm nhưng không phải là Thiếu Lâm, chỉ e tôn sư bổn phái cũng không biết thật.

    Câu nói của chàng tuy khiêm nhường, song ngụ ý rằng phái Võ Đang quả thực chẳng thèm biết đến võ công của bọn bàng môn tả đạo. Gã kia nghe câu “cứ tưởng thuộc môn phái Thiếu Lâm nhưng không phải là Thiếu Lâm” lập tức tái mặt.

    Lão già cầm cây đao, hai lòng bàn tay da thịt đã bị cháy đến tận xương; còn hai lão già kia thì đang sẵn sàng xông tới đoạt lấy thanh bảo đao. Bỗng “vù” một tiếng, lão già cầm đao vung thanh đao lên xông thẳng ra ngoài. Lão ta vung đao chỉ để dọn đường, không định chém ai, song Du Đại Nham đứng ngay trước mặt lão nên phải vội vàng nhảy vọt lên cao né tránh. Đại Nham không ngờ mình vừa cứu sống lão ta, vậy mà lão ta trở mặt chém chàng.

    Lão già hai tay cầm đao cứ vừa vung chém như điên vừa xông ra. Gã bạch y và hai lão già còn lại đều sợ đao thế lợi hại, không dám ngăn chặn, chỉ đuổi theo sau hò hét. Lão già hai tay cầm đao đã lao ra khỏi cổng, đột nhiên vấp chân, ngã bổ nhoài về phía trước, rú lên một tiếng lớn, tựa hồ đã bị trọng thương.

    Gã bạch y và hai lão già còn lại cùng chạy tới, giơ tay cướp thanh đao; nhưng không hẹn mà cùng kêu thét lên như bị rắn độc cắn. Gã bạch y vừa ngã đã bật dậy, chạy vội ra bên ngoài; riêng ba lão già thì cứ nằm lăn lộn dưới đất, không sao đứng dậy nổi.

    Du Đại Nham thấy thảm cảnh ấy, đang tính ra tay cứu người, bỗng giật mình sực nhớ việc phái Hải Sa rắc muối độc ở bên ngoài tòa nhà, da thịt đụng phải thì nguy. Lúc này quanh tòa nhà toàn là muối độc, bản thân Đại Nham cũng khó bề thoát ra. Đưa mắt nhìn quanh, Đại Nham thấy ở hai bên cổng có hai chiếc ghế dài, bèn dựng hai cái ghế ấy lên theo chiều thẳng đứng, đặt chân bên trên mà đi ra ngoài như đi cà kheo. Lúc đi qua chỗ lão già hai tay cầm đao đang lăn lộn, Đại Nham xé vạt áo bọc bàn tay, cúi xuống chộp lưng lão ta mà đi cà kheo thật nhanh về hướng đông.

    Hành động của Du Đại Nham khiến phái Hải Sa bị bất ngờ hoàn toàn. Bọn họ tưởng ba lão già sắp chết thì sẽ dễ dàng đoạt được thanh đao, ai dè bị đối phương cướp đi; bọn họ liền hò hét đuổi theo, vừa đuổi vừa tung mười mấy loại ám khí về phía đối phương.

    Du Đại Nham vận sức vào hai chân, hai cái ghế dài làm cho chân tựa hồ dài thêm bốn thước, chỉ dăm sáu bước chàng đã bỏ xa bọn Hải Sa, các thứ ám khí của chúng đều ném hụt. Du Đại Nham thấy bọn họ cứ la hét đuổi theo, bèn hất mạnh hai cái ghế về phía sau; chỉ nghe mấy tiếng la oai oái, hẳn có mấy tên bị ghế văng trúng. Du Đại Nham đã cách xa bọn chúng hơn mười trượng, tuy một tay phải xách lão già, song chàng chạy càng lúc càng nhanh, bọn Hải Sa không thể đuổi kịp được nữa.

    Du Đại Nham chạy gấp một hồi, chỉ nghe có tiếng sóng biển chứ không có tiếng chân người đuổi theo, bèn hỏi lão già:

    - Nè lão, sao rồi?

    Lão già rên rỉ, không trả lời. Du Đại Nham nghĩ bụng: “Lão ta bị dính muối độc, phải tắm rửa cho lão cái đã”; liền xách lão ra sát mép biển, nhúng lão ta xuống nước. Nước biển gặp thanh đao nóng sôi “xèo xèo” và bốc khói trắng. Lão già nửa tỉnh nửa mê, được ngâm nước biển hồi lâu, vẫn chưa tự bò dậy nổi. Du Đại Nham đang định kéo lão ta lên thì có một lớp sóng lớn tràn tới đẩy lão ta lên bãi cát.

    Du Đại Nham nói:

    - Bây giờ lão đã thoát hiểm, tại hạ còn bận việc lớn, vậy chúng ta chia tay ở đây.

    Lão già gượng dậy, nói:

    - Các hạ… sao không cướp… lấy bảo đao?

    Du Đại Nham cười đáp:

    - Thanh đao quý thật, song không phải của tại hạ, làm sao tại hạ có thể cướp nó?

    Lão già kinh ngạc, không dám tin, nói:

    - Các hạ có quỷ kế gì, định làm gì lão phu vậy?

    Du Đại Nham đáp:

    - Tại hạ và lão không thù không oán, thấy lão thụ thương thì tại hạ cứu giúp, chứ có quỷ kế gì đâu.

    Lão già lắc đầu nói to:

    - Tính mạng lão phu ở trong tay các hạ, muốn giết thì giết, chứ đừng giở thủ đoạn hiểm độc với lão phu; lão phu mà chết cũng biến thành ma quỷ không buông tha cho các hạ đâu.

    Du Đại Nham biết lão ta thụ trọng thương, thần trí bấn loạn nên chẳng buồn cãi vã với lão, chỉ mỉm cười, đang định bỏ đi thì bỗng có một đợt sóng lớn tràn tới, lão già rên rỉ, người ướt sũng, run lên cầm cập.

    Du Đại Nham nghĩ thầm, cứu người thì cứu cho trót, lão già này trúng độc rất nặng, nếu ta cứ bỏ mặc mà đi, hẳn lão sẽ chôn thây dưới đáy biển. Thế là chàng túm lấy lão già, xách lên một cái gò nhỏ, đưa mắt nhìn xung quanh, thấy trên sườn núi phía đông bắc có một căn nhà trông như cái miếu, bèn đem lão già tới đó; thấy trước cửa có tấm biển đề ba chữ đã mờ “Hải Thần miếu”, liền đẩy cửa bước vào, thấy trong miếu rất sơ sài, nền nhà đầy cát bụi, không ai trông coi.

    Chàng đặt lão già nằm trên bục gỗ trước bàn thờ thần Biển, đá lửa trong túi chàng đã bị nước biển làm ướt; chàng tới bàn thờ sờ tìm một lát, quả nhiên thấy có đá lửa, liền đánh lửa châm cây nến cháy dở ở đó. Nhờ ánh sáng nến, chàng thấy mặt lão già tím bầm, hiển nhiên chất độc đã ngấm sâu, bèn móc túi lấy ra một viên “Thiên tâm giải độc đơn”, nói:

    - Lão hãy nuốt viên giải độc này đi.

    Lão già đang nhắm nghiền hai mắt, nghe vậy liền mở mắt, nói:

    - Lão phu không sử dụng thứ độc dược hại người của các hạ đâu.

    Dù giỏi nhịn đến mấy, lúc này Du Đại Nham cũng hết chịu nổi, trợn mắt nói:

    - Lão nghĩ tại hạ là ai hả? Môn hạ Võ Đang há làm việc gì hại người? Đây là viên thuốc giải độc, nhưng chưa chắc có thể cứu lão thoát chết vì lão trúng độc quá nặng, song chí ít nó cũng giúp lão sống thêm ba hôm nữa, đủ để lão mang thanh bảo đao kia đổi lấy thuốc giải độc của phái Hải Sa, cứu mạng mình đó.

    Lão già đột nhiên đứng phắt dậy, nói to:

    - Lão phu nhất quyết không cho bất cứ ai lấy thanh đao Đồ Long này.

    Du Đại Nham nói:

    - Đến tính mạng lão chẳng còn, cố giữ bảo đao phỏng ích gì?

    Lão già nói, giọng run run:

    - Lão phu thà chết chứ thanh đao Đồ Long phải là của lão phu!

    Nói đoạn lão ôm chặt lấy thanh đao, áp má vào nó ra chiều yêu quý vô cùng, vừa nhận viên “Thiên tâm giải độc đơn” nuốt vào bụng.

    (còn tiếp)

    Nguồn: Ỷ Thiên Đồ Long Ký. Tiểu thuyết của Kim Dung - từng được dịch ra tiếng Việt là Cô gái Đồ Long. Đây là cuốn cuối cùng trong bộ tiểu thuyết Xạ điêu tam khúc. Hương Cảng Thương báo xuất bản lần đầu năm 1961 tại Hồng Kông. Lê Khánh Trường & Lê Việt Anh dịch từ nguyên tác. NXB Văn học, 2002.

    Bản điện tử của truyenkimdung.net/y-thien-do-long-ky/

    Mục lục: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54

    Bài viết liên quan

  • Nam Đế Vạn Xuân
    • Nam Đế Vạn Xuân

      Với hơn 500 trang, 15 hồi gay cấn, sinh động trong từng câu thoại của các nhân vật lịch sử, Tiểu thuyết Lịch sử Nam Đế Vạn Xuân nằm trong bộ Tiểu thuyết dài tập Vương triều tiền Lý của Nhà văn Phùng Văn Khai. Nam Đế Vạn Xuân tái hiện một cách sinh động lịch sử nước nhà xoay quanh triều đại của nhà nước Vạn Xuân (544-602) giúp chúng ta hiểu và tự hào hơn về lịch sử đánh giặc hào hùng của dân tộc. Với bộ nhân vật lịch sử đồ sộ của cả ta lẫn địch như: Lý Nam Đế, Tinh Thiều, Phạm Tu, Triệu Túc, Triệu Quang Phục, Phùng Thanh Hòa… hay Lương Vũ Đế, Vũ lâm hầu Tiêu Tư, Dương Phiêu, Lý Tắc… tạo nên rất nhiều tình tiết móc ngoặc, những cuộc đấu trí gay cấn hay những lời thoại sinh động của từng nhân vật. Nam Đế Vạn Xuân như một con tàu thời gian đưa ta ngược trở về từng quãng của lịch sử cách đây gần 1500 năm từ khi Lý Bí tu tập tại chùa Cổ Pháp đến thời điểm làm Giám quân ở Đức Châu và cuối cùng là đuổi giặc Lương lên ngôi tại điện Vạn Thọ. Đó cũng là lần đầu tiên Việt Nam có hoàng đế và niên hiệu Thiên Đức là niên hiệu riêng đầu tiên để chứng tỏ nước ta đã giành lại độc lập từ tay Trung Quốc.

    Tìm kiếm

    Lượt truy cập

    • Tổng truy cập57,865,956

    Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

       

      Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

      *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

    Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

      WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

      Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

      The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

      Enjoy life, enjoy Arita experience!