Tìm kiếm

Lượt truy cập

  • Tổng truy cập57,866,039

Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

     

    Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

    *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

    WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

    Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

    The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

    Enjoy life, enjoy Arita experience!

Tiểu thuyết

Ỷ Thiên Đồ Long ký

Kim Dung

  • Thứ năm, 14:51 Ngày 10/12/2020
  • Ỷ Thiên Đồ Long ký

    Lời giới thiệu của wikipedia:

    Ỷ Thiên Đồ Long ký (tiếng Trung: 倚天屠龍記), còn được dịch ra tiếng Việt là Cô gái Đồ Long, là một tiểu thuyết võ hiệp của nhà văn Kim Dung. Đây là cuốn cuối cùng trong bộ tiểu thuyết Xạ điêu tam khúc. Tiểu thuyết được Hương Cảng Thương báo xuất bản lần đầu năm 1961 tại Hồng Kông và sau đó bản tiếng Việt được Nhà xuất bản Văn học xuất bản tại Việt Nam.

    Bối cảnh tiểu thuyết lấy vào cuối thời nhà Nguyên, 80 năm sau sự kiện trên đỉnh Hoa Sơn trong Thần điêu hiệp lữ, lúc này nhà Nguyên đang bị suy yếu bởi các cuộc khởi nghĩa và vì sự xa hoa lãng phí của triều đình. Truyện xoay quanh Trương Vô Kỵ và mối tình phức tạp với 4 cô gái, bên cạnh đó là những âm mưu thủ đoạn đầy máu tanh trên giang hồ nhằm chiếm đoạt hai món báu vật là Đồ Long đao và Ỷ Thiên kiếm, với lời đồn nếu tìm được bí mật trong đao kiếm sẽ hiệu triệu được thiên hạ. Truyện kết thúc với sự sụp đổ của nhà Nguyên, người Mông Cổ phải rút về thảo nguyên phía bắc cùng với sự thành lập của nhà Minh bởi Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương.

    Trương Vô Kỵ là nhân vật chính trong truyện, được xem là có nội tâm phức tạp hơn so với Quách Tĩnh và Dương Quá, điều này làm cho nhân vật trở nên thực tế hơn. Trương Vô Kỵ vào cuối truyện xem Triệu Mẫn là tình yêu lớn nhất của đời mình, nhưng anh vẫn nhớ nhung 3 cô gái khác. Mặc dù có võ công cao cường và là một người chính trực khẳng khái, có thể truyền cảm hứng cho người khác, song Trương Vô Kỵ không hề có những tố chất cần thiết của một nhà lãnh đạo là lòng ham muốn mãnh liệt với quyền lực và tâm kế để duy trì quyền lực. Chính vì vậy vào cuối truyện, anh đã bị Chu Nguyên Chương lừa nên từ chức và bỏ đi cùng Triệu Mẫn, khiến quyền lực của quân khởi nghĩa chống Nguyên dần rơi vào tay Chu Nguyên Chương, làm bước đệm cho Chu Nguyên Chương giành lấy thiên hạ.

    Câu chuyện xoay quanh truyền thuyết về Đồ Long đao và Ỷ Thiên kiếm là hai báu vật trong võ lâm, nếu ai nắm được cả hai thứ đó sẽ hiệu triệu được thiên hạ:

    Võ lâm chí tôn

    Bảo đao Đồ Long

    Hiệu lệnh thiên hạ

    Mạc cảm bất tòng

    Ỷ Thiên bất xuất

    Thùy dữ tranh phong

    (Tạm dịch: Trong võ lâm chí tôn, đao báu Đồ Long là hiệu lệnh của thiên hạ, không ai là không theo. Nếu kiếm Ỷ Thiên không xuất hiện (thì) lấy gì cùng nó (Đồ Long) tranh phong?)

    Bí mật trong đao kiếm

    Năm xưa khi quân Mông Cổ vây đánh thành Tương Dương, Hoàng Dung thấy thế quân quá lớn biết rằng không thể giữ được thành, vì không muốn võ công và binh pháp của Quách Tĩnh bị thất truyền, lại mong muốn sau này hậu thế có thể dùng những công phu tuyệt luân đó đánh đuổi quân thù nên đã rèn hai món bảo vật là Ỷ Thiên Kiếm và Đồ Long Đao rồi đem bí kíp giấu vào trong đó. Ỷ Thiên kiếm giấu bí kíp Cửu Âm Chân Kinh. Trong Đồ Long đao giấu bộ Vũ Mục di thư. Kiếm sắc bén vô cùng không vũ khí nào so bì được. Vì thế giang hồ có câu "Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong". Cây kiếm về sau được lưu truyền bởi Quách Tương, người sáng lập ra phái Nga Mi và truyền nhiều đời cho chưởng môn của giáo phái. Sau khi bị Triệu Mẫn cướp, kiếm lại bị Chu Chỉ Nhược dùng mưu mẹo lấy lại và khám phá ra bí mật của kiếm để từ đó luyện Cửu Âm Bạch Cốt Trảo. Trong bản sửa đổi mới nhất, Kim Dung đã sửa lại trong đao và kiếm không chứa các bản viết tay mà chứa 2 miếng sắt, lý do là khi đao kiếm chém vào nhau làm tóe lửa sẽ thiêu hủy bí kíp. Hai miếng sắt trong bản mới có vẽ bản đồ chỉ đường đến Đào Hoa đảo, nơi cất giấu bản viết tay Cửu Âm chân kinh và Vũ Mục di thư.

    Trương Tam Phong và phái Võ Đang

    Sau khi kết thúc bộ Thần điêu hiệp lữ, hai thầy trò Giác Viễn và Trương Quân Bảo trở về Thiếu Lâm chịu phạt vì tội để mất bộ "Lăng Già kinh", trong đó có tuyệt thế thần công "Cửu Dương Thần Công". Một hôm nữ hiệp Quách Tương đi ngang qua chùa Thiếu Lâm, gặp đúng lúc Tam Thánh Côn Luân Hà Túc Đạo khiêu chiến chùa Thiếu Lâm. Trương Quân Bảo ra đối chiến với Hà Túc Đạo, đuổi được hắn đi. Trước khi đi, Hà Túc Đạo để lại lời nhắn rằng hai tên Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử đã chết, Tiêu Tương Tử trước khi chết nói lại: "Kinh tại hầu trung" (kinh trong bụng khỉ), nhưng do hấp hối nên Hà Túc Đạo nghe thành "kinh tại dầu trung" (kinh ở trong dầu) và Hà Túc Đạo đem lại lời nhắn đó nói cho Giác Viễn rồi bỏ đi.

    Các tăng chùa Thiếu Lâm thấy Trương Quân Bảo đánh được cường địch, lại cho rằng cậu học lén võ công trong chùa, muốn bắt cậu mà phế đi võ công rồi đuổi khỏi chùa. Quách Tương bất bình nên đứng ra giúp Quân Bảo. Giác Viễn biết chùa Thiếu Lâm người đông thế mạnh nên bỏ 2 người vào 2 đầu đòn gánh mà vừa gánh vừa chạy. Chạy đến chân núi thì Giác Viễn hết sức, ngồi tọa thiền nhập định, trong lúc nhập thần đã đọc lại toàn bộ Cửu Dương Thần Công cho ba người khác nghe là Trương Quân Bảo, Quách Tương và Vô Sắc thiền sư chùa Thiếu Lâm đã phát hiện ba người Giác Viễn nhưng nấp sau bụi cây. Giác Viễn ngay sau đó đã viên tịch, Vô Sắc để cho 2 người Quách Tương xuống núi.

    Ba người đều dựa vào những gì nghe được hôm đó, tuy không thể nào nhớ hết được, mà ngộ ra võ học, khai tông lập phái. Quách Tương trở về Tương Dương và theo lệnh cha mẹ mang theo Ỷ Thiên kiếm đến núi Nga Mi lập phái, còn Đồ Long đao, sau khi quân Mông Cổ phá được thành Tương Dương thì cả nhà Quách Tĩnh đều tự sát nên rơi vào tay quân Mông Cổ. Vô Sắc biên soạn lại nội công phái Thiếu Lâm, trở thành cao thủ một đời. Trương Quân Bảo siêng năng tập luyện thần công, lại hay hành hiệp trượng nghĩa. Đến năm năm mươi tuổi, ông học được phép dưỡng sinh của đạo gia, đi ngang qua núi Võ Đang, thấy có 3 ngọn núi sừng sững, từ đó ngộ ra cảnh giới mới của võ học nên lấy đạo hiệu là Tam Phong. Ông lên núi lập quán, sáng lập ra phái Võ Đang, lại thu nhận bảy người đệ tử gồm: Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Du Đại Nham, Trương Tùng Khê, Trương Thúy Sơn, Ân Lê Đình và Mạc Thanh Cốc, được giang hồ tôn làm "Võ Đang thất hiệp". Phái Võ Đang trở thành thái sơn bắc đẩu trong võ lâm, được sánh ngang với chùa Thiếu Lâm.

    Cha mẹ của Trương Vô Kỵ

    Du Đại Nham, đệ tử thứ ba của Trương Tam Phong phái Võ Đang, trên bước đường giang hồ hành hiệp, do cứu người hoạn nạn mà tình cờ có được Đồ Long đao. Ngay sau đó, chàng bị Ân Tố Tố, con gái của Ân Thiên Chính - giáo chủ Thiên Ưng giáo, phóng ngân châm đả thương và chiếm đoạt Đồ Long đao. Ân cô nương thuê Đô Đại Cẩm chủ Long Môn tiêu cục chuyển Du Đại Nham bị thương liệt người về núi Võ Đang giao cho chưởng môn Trương Tam Phong. Gần đến núi Võ Đang, Đô Đại Cẩm giao nhầm Du Đại Nham cho sáu người lạ mặt (A Tam, A Nhị, A Đại và 3 cao thủ Tây Vực khác), A Tam dùng Kim Cang Đại Lực Chỉ đánh Du Đại Nham trọng thương thêm một lần nữa đứt hết gân cốt. Trương Thúy Sơn, đệ tử thứ năm của Trương Tam Phong, tìm được Du Đại Nham và đưa lên núi.

    Vì việc hộ tống Du Đại Nham không thành mà Ân Tố Tố tàn sát cả bảy mươi hai người ở Long Môn tiêu cục và một số cao thủ khác (được họ Đô mời bảo hộ tiêu cục) của phái Thiếu Lâm. Trương Thúy Sơn vì tức giận Đô Đại Cẩm, cũng đến Long Môn Tiêu Cục để làm khó dễ họ. Trong khi đó, Ân Tố giả dạng Trương Thúy Sơn giết người làm xảy ra chuyện hiểu lầm giữa phái Võ Đang và Thiếu Lâm. Tại đây, chàng gặp Ân Tố Tố, nhưng không biết rằng nàng là người đã hạ độc thủ. Sau vài lời trao đổi, Trương Thúy Sơn nhận ra Ân Tố Tố có biết về việc Du Đại Nham nên nhảy lên thuyền Ân Tố Tố rồi nghe nàng kể chuyện nàng đã thuê hộ tống Du Đại Nham như thế nào, rồi Du Đại Nham bị giao lầm cho sáu kẻ lạ mặt như thế nào, và nàng đã tấn công sáu kẻ lạ mặt đó và trúng thương bởi ba mai hoa tiêu tẩm độc. Trương Thúy Sơn cảm kích, vận nội lực chữa chạy vết thương cho nàng. Ân Tố Tố cũng có vẻ say đắm Trương Thúy Sơn, và mời chàng ra đảo Vương Bàn Sơn, nơi Thiên Ưng giáo tổ chức một cuộc hội họp nhỏ giữa một số phái để khoe đao Đồ Long. Tại đây xảy ra một vài cuộc tranh tài nhỏ giữa Trương Thúy Sơn và các cao thủ võ lâm, đồng thời Ân Tố Tố cũng thêm phần say mê Trương Thúy Sơn.

    Giữa lúc đao Đồ Long được đem ra thì Tạ Tốn xuất hiện, sát hại các cao thủ, đoạt đao Đồ Long và thách đấu với Trương Thúy Sơn. Chàng dùng thư pháp viết lên hai mươi bốn chữ trên vách núi: "Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng, Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong". Tạ Tốn chịu thua, tha chết cho Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố nhưng dùng tuyệt kĩ "Sư Tử Hống" hạ sát tất cả những người khác trên đảo - trừ vài người có nội công cao cường chỉ bị điên dại, hoặc bị ngất trước đó nên không sao cả. Sau đó ba người lên một chiếc thuyền nhắm hướng ra biển cả. Trải qua một trận bão lớn, thuyền bị đắm, cả ba người bị trôi dạt lên vùng cực bắc nương nhờ theo các tảng băng sơn. Tạ Tốn trong lúc nóng giận phát điên định giết Trương và Ân nhưng bị Ân cô nương bắn ngân châm làm mù mắt. Cuối cùng cả ba người đều trôi dạt đến một hòn đảo với một ngọn núi lửa ở trung tâm nhưng đất đai khá màu mỡ. Nơi này Ân Tố Tố và Trương Thúy Sơn kết nghĩa vợ chồng, hạ sinh được một đứa con trai đặt tên là Trương Vô Kỵ - tên đặt theo tên của con trai Tạ Tốn đã bị giết trước đây là Tạ Vô Kỵ - nhận Tạ Tốn làm cha đỡ đầu. Trương Thúy Sơn bái Tạ Tốn là anh kết nghĩa.

    Đến năm Vô Kỵ lên mười tuổi, Tạ Tốn ở lại Băng Hỏa đảo để tránh ân oán giang hồ, Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố đóng bè đưa Vô Kỵ về Trung Nguyên. Về lại quê xưa, Trương Ân hai người mới biết rằng mười năm qua các phái đánh nhau triền miên vì sự mất tích của hai người cùng Tạ Tốn và đao Đồ Long. Trên đường về núi Võ Đang, Vô Kỵ bị một kẻ lạ mặt bắt cóc và Vô Kỵ trúng phải hàn độc của Huyền Minh thần chưởng. Cũng tại núi Võ Đang, Trương Thúy Sơn bị các đại môn phái ở Trung Nguyên làm khó dễ vì là anh em kết nghĩa với Tạ Tốn và biết Tạ Tốn đang ở đâu. Vì không thể nói ra tung tích của Tạ Tốn nên chàng rút kiếm tự vẫn, Ân Tố Tố cũng tự tử chết theo chồng.

    Cũng tại núi Võ Đang, Trương Vô Kỵ cũng bị kẻ lạ mặt (thực ra là Huyền Minh Nhị Lão đánh trọng thương chàng bởi võ công Huyền Minh thần chưởng) mang tới chứng kiến cha mẹ tự vẫn, Trương Tam Phong dùng Thuần Dương Vô Cực mà ngày xưa nghe được một ít từ Giác Viễn đại sư trị được phần nào nội thương của Vô Kỵ. Sau đó ông đích thân dẫn Vô Kỵ lên núi Thiếu Thất xin các nhà sư Thiếu Lâm truyền phần còn lại của Cửu dương chân kinh để Vô Kỵ có thể tự trị được nội thương. Không Văn, chưởng môn của phái Thiếu Lâm từ chối, Trương Tam Phong đành dắt Vô Kỵ xuống núi.

    Vô Kỵ lưu lạc giang hồ

    Lúc xuống núi, Trương Tam Phong cứu được Chu Chỉ Nhược cùng một hán tử thuộc Minh giáo đang bị quân Nguyên đuổi đánh trên sông là Thường Ngộ Xuân. Để cảm tạ, hán tử này dẫn Trương Vô Kỵ đến một danh y của Minh Giáo tên là Hồ Thanh Ngưu để xin chữa bệnh. Đổi lại, Trương Tam Phong dẫn cô bé tên là Chu Chỉ Nhược, con gái người lái đò đã bị sát hại, về núi Võ Đang.

    Trên đường đến Hồ Điệp cốc, nơi ở của Hồ Thanh Ngưu, Vô Kỵ vô tình nghe lén được chuyện đời tư của Kỷ Hiểu Phù, một đại đệ tử của phái Nga Mi nhưng lại có một đứa con gái riêng với Dương Tiêu, Quang Minh Tả sứ của Minh giáo là Dương Bất Hối.

    Vô Kỵ lưu lại Hồ Điệp cốc khoảng hai năm để chữa bệnh đồng thời cũng được Hồ Thanh Ngưu truyền dạy cho nhiều kiến thức y thuật quý báu. Kim Hoa bà bà xuất hiện và đả thương mười lăm người, trong số đó có Kỷ Hiểu Phù, với những chứng bệnh kì quái và bảo họ đến nhờ Hồ Thanh Ngưu chữa. Do Kim Hoa bà bà có mối thù xưa với Hồ Thanh Ngưu vì trước đây ông từ chối chữa bệnh cho chồng bà ta, nên chồng bà chịu chết. Hồ Thanh Ngưu hướng dẫn cho Vô Kỵ chữa chạy những người đó, nhưng bị vợ ông ta phá. Sau đó, hai vợ chồng của Hồ Thanh Ngưu bị Kim Hoa bà bà sát hại sau khi bà bà phát hiện 2 mộ giả của họ. Kỷ Hiểu Phù bị sư phụ là Diệt Tuyệt sư thái đánh chết do không chịu ra tay ám sát Dương Tiêu. Trước lúc lâm chung, Kỷ Hiểu Phù gửi gắm lại đứa con gái tên Dương Bất Hối cho Vô Kỵ và nhờ đem con mình gửi cho cha nó là Dương tả sứ. Kim Hoa bà bà cũng đấu võ với Diệt Tuyệt sư thái nhưng chịu thua khi sư thái sử dụng đến Ỷ Thiên kiếm.

    Vô Kỵ dắt Bất Hối đi về phía dãy núi Côn Lôn để tìm cha cô bé. Trên đường đi, Vô Kỵ cứu người của phái Côn Lôn bị thương nên được đưa về bản doanh của phái Côn Lôn và gặp chưởng môn Hà Thái Xung. Nơi đây, Vô Kỵ chữa thành công bệnh rắn độc cắn cho người vợ lẽ của ông ta. Ông mở tiệc chiêu đãi thì Vô Kỵ phát giác là rượu có độc, bà vợ cả xuất hiện, nói mình là chủ mưu và tức giận điểm huyệt mọi người, bắt Vô Kỵ uống rượu độc. Vô Kỵ tự giải huyệt - công phu của nghĩa phụ Tạ Tốn, rồi giúp Hà Thái Xung giải huyệt. Vô Kỵ nhận rõ bộ mặt tráo trở của Hà Thái Xung, đành dùng kế lừa Hà Thái Xung giúp mình và Bất Hối trốn chạy, sau đó bị bà vợ cả đuổi theo. Lúc đó thì Dương Tiêu xuất hiện, cứu lấy Bất Hối và Vô Kỵ. Sau khi biết được Bất Hối là con gái mình, Dương Tiêu cảm tạ Vô Kỵ rồi dẫn Bất Hối đi. Vô Kỵ bây giờ một mình lưu lạc giang hồ, không biết là sẽ đi đâu khi mà cậu chỉ còn sống vài năm nữa vì nội thương của Huyền Minh thần chưởng...

    Vô Kỵ chinh phục võ lâm

    Khi đi băng qua dãy núi Côn Lôn, vì cứu một con khỉ bị thương, Vô Kỵ bị bầy chó săn của Chu Cửu Chân, con gái Chu Trường Linh (Hậu duệ của Đại thừa tướng Chu Tử Liễu, đồ đệ của Nhất Đăng đại sư trong "Anh hùng xạ điêu" và "Thần điêu đại hiệp") cắn trọng thương. Sau khi vết thương hồi phục, Chu Trường Linh dùng mưu kế, tự nhận Trương Thúy Sơn là đại ân nhân, để dụ dỗ Trương Vô Kỵ chỉ ra nơi ở của Tạ Tốn. Vô Kỵ cả tin, kể ra mọi sự; sau đó nhờ tình cờ nghe lén Chu Trường Linh và Võ Liệt (Hậu duệ của Tổng quản ngự lâm quân Võ Tam Thông, con cháu của Võ Tu Văn trong "Thần điêu đại hiệp") bàn mưu tính kế đoạt đao Đồ Long, Vô Kỵ bỏ trốn bị Chu Trường Linh đuổi theo và cả hai sẩy chân rơi xuống một vực núi. Ở lưng chừng vực, nhờ vướng cành cây, Vô Kỵ rơi vào một gành đá, rồi khám phá một hang đá lộ thiên lớn. Trong động này, Vô Kỵ nhờ cứu một con khỉ mà tìm ra Cửu Dương Chân Kinh ẩn giấu trong bụng khỉ. Khoảng 80 năm về trước, quyển kinh này đã bị hai kẻ gian (Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử - xem "Thần điêu đại hiệp") lấy cắp từ Tàng Kinh Các trong chùa Thiếu Lâm, vì sợ phát hiện nên giấu vào bụng khỉ. Hai kẻ này tàn sát lẫn nhau, con khỉ trốn thoát, lưu lạc lên hang đá này. Vô Kỵ trải qua 5 năm tu luyện Cửu dương thần công trong hang đá, nội công trở nên hết sức thâm hậu, tự đẩy được hàn độc ra ngoài. Trong thời gian này, Chu Trường Linh cũng được Trương Vô Kỵ nuôi sống ở ngoài hang bằng trái cây.

    Sau đó, Vô Kỵ thoát ra ngoài hang, bị Chu Trường Linh bẫy sẩy chân rơi xuống chân núi nhưng rơi vào một bãi cỏ khô phủ đầy tuyết nên không chết mà chỉ bị gãy chân. Chu Trường Linh vì cố chui vô hang cũng bị kẹt mà chết luôn ở đó. Vì ở trong núi lâu, nên không ai còn nhận ra Vô Kỵ. Khi nằm trên tuyết dưỡng thương, Vô Kỵ gặp Ân Ly (con gái của Ân Dã Vương, em họ của Vô Kỵ) và tự xưng tên mình là Tăng A Ngưu. Ân Ly bị một số người vây đánh, trong đó có cả Chu Chỉ Nhược, được Vô Kỵ truyền nội công chống đỡ.

    Sau đó, Ân Ly và Vô Kỵ bị phái Nga My dẫn đầu là Diệt Tuyệt sư thái bắt làm tù binh. Lúc đó lục đại phái - 6 phái võ lâm (Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga My, Côn Lôn, Hoa Sơn, Không Động) đang tiến quân lên đỉnh Quang Minh để tiêu diệt Minh giáo.

    Vi Nhất Tiếu xuất hiện, cứu lấy Ân Ly, Vô Kỵ đuổi theo, bị Thuyết Bất Đắc bắt bỏ vào túi và đem lên đỉnh Quang Minh. Tại đỉnh Quang Minh, Vô Kỵ chứng kiến Viên Chân (Thành Côn) ra tay đánh lén các cao thủ của Minh giáo đang tranh võ lẫn nhau. Vô Kỵ ra tay, đánh lại Viên Chân, sau đó đuổi theo Viên Chân, với sự giúp đỡ của Tiểu Chiêu (một gián điệp của Kim Hoa bà bà được cài làm hầu nữ bên cạnh của Bất Hối), lọt vào bí đạo nằm sâu trong đỉnh núi. Dưới bí đạo này, Vô Kỵ biết được lịch sử của Minh giáo. hài cốt và bí ẩn về cái chết của vợ chồng Dương giáo chủ và khám phá ra Càn Khôn Đại Nã Di tâm pháp. Vì trong người đã có Cửu dương công thâm hậu, Vô Kỵ chỉ cần qua một đêm đã luyện tới cấp thứ bảy của Càn Khôn Đại Nã Di (người thường phải mất 14 năm người có võ công cao cũng phải mất 7 năm mới luyện được một cấp nhưng trước giờ chưa ai luyện được đến cấp thứ 7, ngay cả người sáng lập ra môn võ này cũng chỉ mới luyện được đến cấp thứ 6, nên cấp cuối ông tự nghĩ ra mà chưa xác thực thành thử có nhiều chỗ sai, may sao Trương Vô Kỵ lại bỏ những chỗ này không học, nhờ thế thoát được họa tẩu hỏa nhập ma). Sau khi công lực đã thành, Vô Kỵ phá cửa đá, thoát lên đỉnh núi vào sáng hôm sau.

    Tại đỉnh núi, Vô Kỵ đánh bại nhiều cao thủ võ lâm của sáu phái, trong đó có cả Không Tính đại sư của phái Thiếu Lâm, vợ chồng Hà Thái Xung - Ban Thục Nhàn của phái Côn Lôn, Diệt Tuyệt sư thái của phái Nga My, ngũ lão của phái Không Động, Tiên Vu Thông của phái Hoa Sơn. Chu Chỉ Nhược, lúc này đã nhận ra Vô Kỵ, có mách vài chiêu khi chàng đấu kiếm, nhưng sau vì nghe lời sư phụ đã dùng Ỷ thiên kiếm đâm chàng một phát chí mạng. Sau đó, Vô Kỵ được tôn vinh lên làm giáo chủ thứ 34 của Minh giáo, kế vị giáo chủ đời 33 là Dương Đỉnh Thiên.

    Vô Kỵ gặp Triệu Mẫn

    Sau khi lên ngôi giáo chủ Minh giáo, Vô Kỵ dẫn một đoàn giáo chúng với ý định đi hoang đảo đón Tạ Tốn về. Khi xuống núi, chàng gặp Ân Lê Đình, đệ tử thứ sáu của Trương Tam Phong, bị thương nặng bởi một loại chưởng thuộc phái Thiếu Lâm (Kim cương chỉ lực do (Phương Trượng Lão Bác Trí Thần Kiếm tức là A Đại - trước đây là trưởng lão Cái Bang và A Nhị). Sau đó chàng gặp Triệu Mẫn (còn gọi là Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ) - quận chúa Mông Cổ ăn mặc giả trai trên người có đeo thanh Ỷ thiên kiếm. Triệu cô nương mời Vô Kỵ và đoàn người đi cùng đến thăm Lục liễu sơn trang, thết đãi nồng hậu. Sau đó Triệu Mẫn để lại thanh Ỷ thiên kiếm vào trong. Mọi người tò mò, rút thanh kiếm ra thì hóa ra đó là một thanh kiếm gỗ thơm ngát và sau đó khi ra khỏi sơn trang tất cả đều cảm thấy choáng váng vì trúng độc. Vô Kỵ quay lại sơn trang, xin Triệu Mẫn thuốc giải độc. Triệu Mẫn lừa Vô Kỵ rơi vào hầm tối, chàng hết cách nên đành cù vào gan bàn chân Triệu cô nương để thoát khỏi hầm, đem thuốc giải độc về cứu quần hùng Minh giáo.

    Sau đó Vô Kỵ dẫn cả đoàn lên chùa Thiếu Lâm để hỏi về vụ Ân Lê Đình. Lên đến đây thì họ thấy chùa trống vắng, các nhà sư đi vây đánh đỉnh Quang Minh vẫn chưa về, các tượng la hán sau lưng đều có khắc dòng chữ: "Tiên tru Thiếu Lâm, Tái diệt Võ Đang. Duy ngã Minh giáo, Võ lâm xưng vương." (Diệt phái Thiếu Lâm trước, rồi diệt Võ Đang sau. Chỉ còn mình Minh giáo, trong võ lâm đứng đầu.)

    Trước tình hình đó, phỏng đoán rằng Trương Tam Phong và các đệ tử đang gặp nguy, Vô Kỵ nhanh chóng đi sang núi Võ Đang, vừa đúng lúc có cao thủ phái Thiếu Lâm Tây Vực đang muốn ám hại Trương Tam Phong. Lúc này Vô Kỵ cải trang thành một tiểu đồng đi khiêng cáng cho Du Đại Nham. Vừa lúc đó, Triệu Mẫn giả danh Trương Vô Kỵ dẫn theo một số cao thủ đến khiêu khích phái Võ Đang và Trương Tam Phong. Lúc này, Vô Kỵ vẫn giả danh là tiểu đồng, ra tiếp chiêu các cao thủ A Đại, A Nhị, A Tam. Trương chân nhân truyền Thái cực quyền và Thái cực kiếm cho Vô Kỵ ngay tại chỗ. Vô Kỵ đánh bại một số cao thủ, nhưng cũng trúng hàn chưởng của Huyền minh nhị lão, dưới trướng của Triệu Mẫn. Cùng lúc các cao thủ của Minh giáo bao gồm Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Vy Nhất Tiếu, Thuyết Bất Đắc cũng vừa lên kịp núi Võ Đang. Triệu Mẫn dẫn các cao thủ rút lui. Lúc này Vô Kỵ lộ danh tính, vái chào Trương Tam Phong và kể cho thái sư phụ chuyện phiêu lưu của chàng kể từ lúc hai người chia tay khoảng hơn mười năm về trước. Bây giờ thì Du Đại Nham và Ân Lê Đình cũng như Vô Kỵ đều biết mình trúng Đại lực kim cương chỉ của A Tam và Huyền Minh thần chưởng của Huyền minh nhị lão.

    Vô Kỵ qua hôm sau thì hồi phục, bèn đuổi theo Triệu Mẫn để lấy thuốc cao chữa gãy xương cho Ân lục thúc và Du tam bá, bị Triệu cô nương đánh lừa để cho chàng lấy phải thuốc giả. Sau đó, Triệu Mẫn bắt Vô Kỵ hứa phải làm cho mình ba việc trước khi chỉ cho chàng chỗ lấy thuốc thật, chính là nằm trong cái hộp vàng và chiếc trâm kẹp tóc trước đây Triệu Mẫn tặng riêng cho chàng, và chàng đã vô tình đem tặng lại cho Tiểu Chiêu.

    Qua điều tra của nhóm Chu Nguyên Chương, Từ Đạt trong Minh giáo, Vô Kỵ biết được các cao thủ của sáu phái đi vây đánh đỉnh Quang Minh, khi về đã trúng kế của Triệu Mẫn bị bắt giam ở chùa Vạn An ở Đại Đô. Và chàng cũng biết được Triệu Mẫn con gái của Nhữ Dương Vương, thống soái của triều đình Nguyên Mông. Triệu cô nương bắt các cao thủ nhốt lại trong tháp trong chùa để học hết các loại võ công và bắt họ quy hàng triều đình. Vô Kỵ cùng Vi Nhất Tiếu và Dương Tiêu lẻn vào tháp và quan sát. Khi Triệu cô nương định ra tay dùng kiếm rạch mặt Chu Chỉ Nhược, Vô Kỵ ra tay cứu Chu cô nương, vô tình ném ra cái hộp vàng mà Triệu cô nương tặng chàng. Thấy Triệu Mẫn ngẩn ngơ nhìn chiếc hộp bị kiếm cắt làm đôi, Vô Kỵ xin lỗi, nói rằng mình luôn mang cái hộp đó bên mình nên lúc đó tiện tay ném ra. Tại đây Vô Kỵ cũng một mình đánh bại được Huyền Minh nhị lão. Sau đó nhờ khinh công tuyệt đỉnh của Vi Nhất Tiếu mà Triệu Mẫn không dám làm hại Chu Chỉ Nhược nữa và Vô Kỵ có thể yên tâm thoát ra.

    Sau đó, với sự giúp đỡ từ bên trong của Khổ đầu đà - Phạm Dao, xưa vốn là Quang minh hữu sứ của Minh giáo, nay giả làm một cao thủ dưới quyền Triệu Mẫn, Vô Kỵ cùng các cao thủ Minh giáo đã giải cứu được các cao thủ của sáu phái đang bị giam trong tháp chùa Vạn An. Diệt Tuyệt sư thái tự vẫn chứ không muốn Minh giáo cứu, và truyền giao chức chưởng môn phái Nga Mi cho Chu Chỉ Nhược, đồng thời truyền lại bí mật về Đồ Long đao và Ỷ Thiên kiếm cho Chu cô nương, và muốn đệ tử phải đoạt được bảo đao và bảo kiếm.

    Triệu cô nương không tỏ ra thù hận Vô Kỵ đã giải cứu các cao thủ mà còn hẹn gặp riêng Trương giáo chủ tại một quán rượu...

    Sau khi đưa quần hùng cứu được từ chùa Vạn An ra ngoài thành, Vô Kỵ quay lại điểm hẹn với Triệu Mẫn. Tại quán rượu, Triệu cô nương đưa ra việc phải làm thứ nhất: đi tìm đao Đồ Long, vì lúc này Ỷ thiên kiếm đang ở trong tay nàng. Tiểu Chiêu cũng muốn đi cùng để hầu hạ Trương công tử vì nàng cũng yêu Trương Vô Kỵ. Trên đường đi ra phía bờ biển, bên trong một cái miếu, ba người nghe lẻn được chuyện Kim Hoa bà bà biết được Đồ Long đao ở đâu, và định gây hấn với phái Nga My. Biết được Diệt Tuyệt sư thái đã qua đời, Ỷ thiên kiếm không còn trong tay phái Nga My, Kim Hoa bà bà bắt Chu Chỉ Nhược đi. Vô Kỵ và Triệu Mẫn ra bờ biển trước đón đường, cải trang thành thủy thủ, lấy một chiến thuyền Mông Cổ giả làm thuyền đánh cá cho thuê. Kim Hoa bà bà thuê chiếc thuyền đó đưa Chu cô nương ra đảo Linh Xà.

    Tại đảo Linh Xà, Vô Kỵ mới biết Tạ Tốn đã được Kim Hoa bà bà đưa về từ băng đảo, tìm cách mượn đao Đồ Long để đổi lấy việc bà bà đi tìm Vô Kỵ cho ông ta. Ân Ly cũng đang ở trên đảo. Khi Tạ Tốn tỷ thí võ với Kim Hoa bà bà thì Vô Kỵ mới biết bà ta là Đại Ỷ Ti - Tử Sam Long Vương trong Minh giáo, trên Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn một bậc. Ân Ly bị đánh trọng thương vì không chịu giúp bà bà đánh Tạ Tốn để đoạt bảo đao. Vô Kỵ nhảy ra cứu Ân cô nương và Tạ Tốn.

    Sau đó các sứ giả Minh giáo Ba Tư xuất hiện, Vô Kỵ đánh nhưng không thắng nổi, Triệu Mẫn xả thân cứu Vô Kỵ nên cũng bị trọng thương. Cả bốn người chạy ra thuyền trốn khỏi đảo, lúc này Chu cô nương và Tiểu Chiêu vẫn còn ở trên thuyền. Trên thuyền Tạ Tốn kể về thân thế của Kim Hoa bà bà, vốn ngày xưa là một thánh nữ của Minh giáo Ba Tư, sang Trung Nguyên để lập công để chuẩn bị lên ngôi giáo chủ. Thế nhưng bà lại kết hôn với một người Hán (Hàn Thiên Diệp) nên bây giờ Minh giáo Ba Tư muốn sang tìm bắt bà ta về thiêu sống. Ông khuyên Vô Kỵ nên quay lại cứu bà bà. Với sự giúp đỡ của Tiểu Chiêu trong việc dịch những câu văn trên thánh hỏa lệnh, Vô Kỵ thắng được các sứ giả Ba Tư về võ công nhưng lại thua họ về mưu kế. Tiểu Chiêu (thật ra là con gái của Kim Hoa bà bà và Ngân Diệp tiên sinh) phải chịu nạp mình để trở thành thánh nữ của Minh giáo Ba Tư. Nàng lặng lẽ từ biệt Trương Vô Kỵ và không còn quay lại nữa. Những người Ba Tư cho thuyền đưa Tạ Tốn, Vô Kỵ, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược, Ân Ly về lại Trung Nguyên. Trên đường về, cả đoàn ghé lại một hòn đảo nhỏ giữa biển. Tối hôm đó, Vô Kỵ cảm thấy uể oải lăn ra ngủ thiếp đi. Khi tỉnh dậy vào sáng hôm sau thì Triệu cô nương và chiếc thuyền đã đi mất, Ân Ly mặt bị rạch, nằm mê man bất tỉnh. Nghĩ rằng Ân cô nương đã chết, Vô Kỵ chôn cô ta và cho rằng Triệu Mẫn đã lừa mình, lấy đi Đồ Long đao và Ỷ thiên kiếm. Vô Kỵ thề sẽ trả thù cho Ân Ly, rồi đính ước với Chu Chỉ Nhược, hẹn rằng khi về Trung Nguyên sẽ làm đám cưới.

    Triệu Mẫn phá đám cưới của Vô Kỵ

    Một thời gian không lâu sau đó, có thuyền của Mông Cổ vâng lệnh Triệu cô nương ra đón Vô Kỵ, Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược về lại Trung Nguyên. Về lại đất liền, Vô Kỵ khám phá ra âm mưu và cùng cô gái áo vàng họ Dương vạch mặt Trần Hữu Lượng thuộc Cái Bang đang thao túng Tống Thanh Thư (con trai Tống Viễn Kiều, vô tình đánh lén chết Mạc Thanh Cốc) để đầu độc phái Võ Đang. Vô Kỵ cũng gặp lại Triệu Mẫn nhưng không nỡ giết nàng, cô nói không phải cô ta là người hại Ân cô nương và lấy đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên. Trong khi đó, Tạ Tốn bị Cái Bang bắt đi.

    Sau đó, Vô Kỵ tổ chức lễ cưới với Chu Chỉ Nhược. Nhưng vì yêu sâu đậm Vô Kỵ, Triệu cô nương xuất hiện, đưa ra việc phải làm thứ hai: bảo Vô Kỵ ngăn lễ cưới lại để đi cứu Tạ Tốn, trong bàn tay cô ta có một nắm tóc của Tạ Tốn. Chu Chỉ Nhược xuất chưởng đánh Triệu Mẫn làm cô ta bị thương nặng và bỏ chạy. Vô Kỵ đuổi theo Triệu cô nương và chữa chạy vết thương cho nàng, đồng thời cũng rất ngạc nhiên về loại độc chưởng của Chu cô nương vừa mới học được. Trên đường, Vô Kỵ và Triệu Mẫn bị Vương Bảo Bảo, anh trai Triệu Mẫn, và đích thân Nhữ Dương Vương cùng thuộc hạ vây bắt. Triệu Mẫn dọa tự tử trước mặt cha nếu không cho mình theo Vô Kỵ, Nhữ Dương Vương đành chịu thua con gái và để hai người ra đi.

    Vô Kỵ giải cứu Tạ Tốn

    Vô Kỵ tìm thấy Tạ Tốn bị biệt giam ở dưới một hầm tối trong Thiếu Lâm tự, với sự canh gác cẩn mật. Chàng cũng tìm cách lý giải với ba vị đại sư rằng những tội ác gây ra bởi Tạ Tốn là do âm mưu của Viên Chân, tên tục là Thành Côn, trước là sư phụ của Tạ Tốn, sau bái Không Kiến đại sư làm sư phụ.

    Vài tháng sau, chùa Thiếu Lâm mở đại hội võ lâm để xử vụ Tạ Tốn, tất cả các môn phái lớn đều có mặt, phần là do có thù xưa với Tạ Tốn, phần là muốn đi xem đao Đồ Long. Tại đại hội này, Vô Kỵ gặp lại Chu Chỉ Nhược, cô thông báo với quần hùng rằng cô đã thành hôn với Tống Thanh Thư, người vừa gia nhập phái Nga My.

    Chu Chỉ Nhược dùng Cửu Âm Bạch Cốt Trảo đánh thương Vô Kỵ. Vô Kỵ chữa trị thương tích cho mình và Tống Thanh Thư bị Nhị thất hiệp đánh trọng thương. Sau đó Vô kỵ biết được nơi nhốt Tạ Tốn cùng với 3 vị đại sư của Thiếu lâm tự. Vô kỵ đưa quần hùng minh giáo tới để giải cứu nghĩa phụ, chàng cùng với Dương Tiêu và Bạch mi Ưng vương xuất thủ nhưng cũng không đánh bại được 3 vị cao tăng của Thiếu lâm (Độ Ân, Độ Kiếp và Độ Năng). Phải nhờ đến sự giúp đỡ của Chỉ Nhược, 2 người mới đánh được 3 cao tăng giải cứu Tạ Tốn. Lúc này Viên Chân (sư phụ cũ của Tạ Tốn) xuất hiện đòi giết Tạ Tốn. Nhưng hắn bị Kim Mao Sư Vương đánh mù đôi mắt và sau đó Tạ Tốn đã tự phế bỏ võ công đã học của Thành Côn để rồi thoát tục lập điện thành phật. Tới đây, qua lời kể của Tạ Tốn, Trương Vô Kỵ mới biết rằng cái đêm trên đảo, người hạ độc chính là Chu Chỉ Nhược. Cô ta lén bỏ thuốc mọi người, sau đó ném Triệu Mẫn lên bè ra biển, rạch mặt Ân Ly và hủy đi Đồ Long Ỷ Thiên, lấy được bí mật trong đó. Tạ Tốn do có thính lực hơn người nên đêm đó biết hết mọi chuyện, nhưng vì sợ Chu Chỉ Nhược hại Vô Kỵ nên phải nói thác rằng chính Triệu Mẫn đã bỏ thuốc rồi trốn đi. Nhưng hỗn loạn chưa dứt, Nhữ Dương Vương đưa quân đánh Thiếu Lâm tự vì cho rằng quần hùng thiên hạ tập trung tại đây có ý tạo phản. Vô Kỵ dẫn dắt quần hùng võ lâm đánh lui quân địch. Nhờ có Võ Mục Di Thư, Vô Kỵ cùng quần hùng đánh bại quân Mông Cổ. Sau đó trong buổi tiệc, y truyền lại Võ Mục Di Thư cho Từ Đạt. Từ đó anh hùng Trung Nguyên đều nức lòng quy phục Minh Giáo, hiệu lệnh của Trương Vô Kỵ đến đâu không ai không theo.

    Vô Kỵ quy ẩn

    Sự việc kết thúc là lúc Vô Kỵ tìm lại được mảnh ghép của Đồ Long đao và Ỷ Thiên kiếm cùng với miếng huyền thiết trong bảo đao và bảo kiếm đem chúng rèn lại như cũ. Sau đó Vô Kỵ được quần hùng thiên hạ tôn làm Võ Lâm Chí Tôn. Các giáo chúng Minh Giáo khuyên Vô Kỵ lên ngôi vua, lãnh đạo giáo chúng đánh đuổi quân Nguyên, kiến lập triều đại mới. Theo Thánh hỏa lệnh Tam đại lệnh, trong đó lệnh thứ nhất là không được làm quan, làm vua, do đó Vô Kỵ từ chối và mong toàn bộ giáo chúng Minh Giáo tuân theo. Sau đó, dã tâm của Chu Nguyên Chương ngày càng lớn, hắn muốn lấy chức giáo chủ nhưng không thành do các giáo đồ chỉ phục tùng và ủng hộ Trương Vô Kỵ, tuy nhiên hắn đã âm mưu giết hại người trong giáo phái, tiêu biểu là cái chết oan của Hàn Lâm Nhi, Liêu Vĩnh Trung. Trương Vô Kỵ canh cánh trong lòng, tự thấy mình không đủ tài năng xử lý được đại sự và không trừng trị được Chu Nguyên Chương, nên quyết định từ chức giáo chủ.

    Đoạn kết truyện được sửa đổi nhiều lần. Trong lần sửa đổi cuối cùng, Trương Vô Kỵ đưa Triệu Mẫn về Mông Cổ, cùng với sự không màng danh lợi, chàng đã từ bỏ tất cả, truyền lại chức giáo chủ Minh giáo cho Dương Tiêu, còn mình bỏ ra thảo nguyên Mông Cổ sống tiếp phần đời còn lại cùng Triệu Mẫn. Trước hôm lên đường, Chỉ Nhược xuất hiện, yêu cầu Vô Kỵ không được bái đường thành thân với Triệu Mẫn mà chỉ được chung sống với cô ta. Trương Vô Kỵ đồng ý, Chỉ Nhược nói "Các người cứ việc làm vợ chồng, sinh con, qua tám năm mười năm, chàng trong lòng chỉ nhớ đến muội, không quên được muội, thế là đủ rồi", rồi lại rời đi.

    Chỉ Nhược đi rồi, Vô Kỵ trong lòng ngơ ngẩn một hồi, nghĩ rằng sau này chỉ cần mỗi ngày cùng Triệu Mẫn như hình với bóng, làm vợ chồng, sinh con, không bái đường thành thân thì cũng chẳng sao. Rồi lại nghĩ "Vì sao qua tám năm mười năm, trong lòng ta cũng chỉ nghĩ đến Chỉ Nhược, cũng không quên được Chỉ Nhược? Nàng kỳ thật không cùng Tống Thanh Thư thành thân, lại từng có ước hẹn hôn nhân với ta. Nàng làm không ít chuyện có lỗi với ta, lúc này nghĩ lại, cũng không quá xấu xa với ta. Có một số việc nàng làm là do sư phụ bức bách, không làm không được. Nàng mặc dù trộm Đồ Long đao cùng Ỷ Thiên kiếm, nhưng bây giờ Đồ Long đao đã trở về tay ta, biểu muội Ân Ly cũng không chết… Yêu ta sâu đậm, rất muốn lấy ta, ngoài Chỉ Nhược, còn có Mẫn muội, còn có Thù Nhi, còn có Tiểu Chiêu… Người đó (Chỉ Nhược) không sai lầm đâu? Chính mình không phải đã từng có lỗi với người ta sao? Tiểu Chiêu đối ta thật tốt, nàng đã lấy được Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp về, thánh xử nữ giáo chủ không làm cũng không sao. Thù Nhi không luyện Thiên Thù Vạn Độc Thủ, nói không chừng có một ngày lại tìm đến Trương Vô Kỵ ta đây, ta đồng ý lấy nàng làm vợ…". Bốn cô nương này, mỗi người đều yêu chàng khắc cốt minh tâm, chàng chỉ nhớ chỗ tốt của người ta, còn toàn bộ khuyết điểm của người ta chàng đều quên hết, vì thế, mỗi người cũng đều rất tốt, rất tốt…

    Như vậy, đoạn kết của truyện có nội dung mở: Vô Kỵ cuối cùng vẫn nặng lòng yêu mến với cả 4 cô gái, không thể quên ai và muốn kết hôn với tất cả bọn họ. Anh cùng Triệu Mẫn tới Mông Cổ chung sống, nhưng không rõ 3 người kia (Chu Chỉ Nhược, Ân Hương Ly, Tiểu Chiêu) sau này có theo chàng tới Mông Cổ hay không.

    (Khi lênh đênh trên Linh Xà đảo, Vô Kỵ từng mơ rằng "thấy mình lấy được Triệu Mẫn, lại lấy cả Chu Chỉ Nhược. Khuôn mặt sưng phù của Ân Ly cũng biến thành đẹp, luôn cả Tiểu Chiêu cũng lấy mình luôn. Ban ngày ban mặt chàng đâu có dám nghĩ tới, nhưng trong giấc ngủ lại thành sự thực, thấy cả bốn cô, cô nào cũng rất tốt, mình không thể bỏ người nào." Cụm từ "cả bốn cô, cô nào cũng rất tốt" được lặp lại trong đoạn kết, ác cảm giữa Chu Chỉ Nhược - Triệu Mẫn - Ân Hương Ly với nhau cũng không còn, ngoài ra khuôn mặt sưng phù của Ân hương Ly cũng đã khỏi đúng như giấc mơ, như vậy phải chăng tác giả ngầm hàm ý rằng cuối cùng giấc mơ của Vô Kỵ sẽ trở thành sự thật, và chàng rồi sẽ lấy cả 4 cô làm vợ?)

    Dựa trên các tác phẩm của Kim Dung, có thể suy ra số phận Minh giáo như sau: Dương Tiêu tuổi già nên không tranh lại được Chu Nguyên Chương. Chu Nguyên Chương sau đó thống lĩnh Minh giáo và vận dụng binh pháp trong Vũ Mục di thư đánh đuổi người Mông Cổ, lập ra nhà Minh, trở thành Hồng Vũ Hoàng đế, tức vua Minh Thái Tổ (chữ "Minh" chỉ Minh giáo vì Minh giáo là lực lượng nòng cốt của Thái Tổ). Minh Thái Tổ lên ngôi, liền tàn sát công thần. Thường Ngộ Xuân vốn được Hồ Thanh Ngưu tiên đoán sẽ sống không qua tuổi 40, quả nhiên sau bị bệnh mất sớm nên may mắn không bị thanh trừng, còn Từ Đạt và vô số mưu thần tướng lĩnh thì không thoát khỏi sự sát hại của nhà vua. Minh giáo bị triều Minh nghi kỵ và truy bắt, các đời Giáo chủ sau Dương Tiêu lại không có năng lực nên Minh giáo dần duy thoái, và rất có thể sau này đã đổi tên trở thành Nhật Nguyệt thần giáo (một giáo phái xuất hiện trong Tiếu ngạo giang hồ, diễn ra khoảng 100 - 200 năm sau thời Ỷ Thiên Đồ Long ký).

    Ý nghĩa

    Trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, rồng được xem là biểu tượng thiêng liêng tượng trưng cho Hoàng đế, thế nên Đồ Long đao mang mục đích là giết Hoàng đế. Hoàng đế ở đây chỉ triều đình Mông Nguyên nói chung và Nguyên Huệ Tông nói riêng. Xuyên suốt lịch sử Trung Quốc, có nhiều Đế Vương đã bị hủ hóa thành bạo chúa gây tai họa cho đất nước. Việc được làm Hoàng đế theo quan niệm thời xưa là do người đó được nhận thiên mệnh, nên kiếm Ỷ Thiên có ý nghĩa dựa vào mệnh trời mà chọn người có thiên mệnh.

    Dựa theo bí mật trong Đồ Long đao là Vũ Mục di thư và Ỷ Thiên kiếm là Cửu âm chân kinh, ta có thể hiểu ý nguyện của Quách Tĩnh và Hoàng Dung khi xưa: ai khám phá ra bí mật trong đao sẽ học được binh pháp vô địch, có được sức mạnh hiệu triệu quần chúng cùng đứng dậy đánh đuổi người Mông Cổ, khôi phục giang sơn cho người Hán. Tuy nhiên, nếu như người đó bị hủ hóa, trở thành bạo chúa gây tai họa, thì sẽ có người học được võ công tuyệt thế trong bảo kiếm, mang nhiệm vụ ám sát bạo chúa để thay thế bằng người tài đức.

    Trương Vô Kỵ, may mắn học được Cửu Dương Thần Công và Càn Khôn Đại Na Di. Ngoài ra còn học được Thất Thương Quyền của Tạ Tốn, Thái Cực Quyền và Thái Cực Kiếm của Trương Tam Phong, võ công ghi trên Thánh Hỏa Lệnh của Ba Tư, trở thành một trong những nhân vật võ công cao cường bậc nhất trong truyện.

    Truyện là sự đấu tranh giang hồ xoay quanh Đồ Long Đao và Ỷ Thiên Kiếm của 3 phe nhóm chủ yếu gồm: Minh Giáo Trung Thổ, Triều đình nhà Nguyên, Lục đại môn phái, ngoài ra còn có các môn phái nhỏ khác.

    *

    Lời giới thiệu của Bửu Ý:  Kim Dung, Tạ Tốn và Ỷ Thiên Đồ Long

    Nếu con người, với thân phận bé mọn và hữu hạn của mình, đã có lần mơ ước một không gian dàn trải mênh mông, một thời gian không chỉ dừng ở hiện tại mà mang đầy hứa hẹn, thì nó sẽ tìm thấy thỏa thích trong loại truyện võ hiệp Trung Hoa ngày nay. Một đứa bé mười tuổi như Vô Kỵ (truyện Ỷ Thiên Đồ Long ký của Kim Dung) một thân một mình dắt một đứa bé gái nhỏ tuổi hơn mình băng qua vô vàn hiểm nguy rừng núi, ruổi dong vạn dặm chẳng sờn lòng. Một phế nhân vò võ trên gác cổ lâu (truyện Vô Danh Tiêu của Ngọa Long Sinh), tự giam mình hai mươi năm trường để luyện võ công… là những nhân vật đã tự ý bỏ quên ý niệm thời gian, không gian để tự thành; những ý niệm đó vốn giam hãm con người trong cái hữu hạn của mình; quên chúng đi, con người mới tự do khai triển khả năng của mình đến mức cuối cùng.

    Hiểu như thế rồi, những tình tiết phần nào thần kỳ hay hoang đường trong loại tiểu thuyết võ hiệp không đáng làm ta bận tâm: tất cả là những mức đến cao xa nhất – khả năng của con người một khi được khuếch sung phải đạt tới – hay ít ra đó là những giấc mơ mà con người đang trên đường quyết tâm thực hiện. Ngàn hải lý có nghĩa gì đâu đối với Kim Hoa bà bà, những ngọn núi cao là cứ điểm của các đại môn phái Thiếu Lâm, Võ Đang, Côn Luân, Minh giáo hay Cái Bang đều là những võ phái giang hồ khắp cùng châu thổ Trung Hoa. Bạch Mi giáo thích lênh đênh trên bể cả. Nếu kinh kỳ là nơi trú đóng của kim vương Mông Cổ để dễ kiểm soát nhân tình, thì nơi cùng cốc thâm sơn là nơi trú thân của những danh tài như Hồ Thanh Ngưu với biệt danh Y tiên hay của những tên bịp bợm chờ thời như Võ Liệt, trong khi đó, ở xa tít mù khơi, tận Bắc cực, Tạ Tốn – đại vương sư tử tóc vàng – ngày ngày nhìn ngắm bể cả và Hỏa Diệm sơn để ôn kinh luyện võ, và trên một hòn đảo khuất tịch, Kim Hoa bà bà, đệ nhất mỹ nhân của võ lâm, cải dạng giấu tên sống một mình. Vô Kỵ sống khắp cùng mọi nơi: sinh ra ở Băng Hỏa đảo, về Trung thổ bị đả thương trầm trọng, muốn chữa bệnh phải lên chùa Thiếu Lâm, kế đó len lỏi đến Hồ Điệp cốc, bị rơi xuống vực sâu sống bốn năm năm, lên núi Võ Đang, xuống đảo Linh Xà, bị nhốt trong đường hầm trên ngọn Quang Minh… Sống chết mất cái vẻ tự nhiên, thiên định mà được quy định bằng những giá trị do con người đặt ra, chính những giá trị này được con người coi nặng hơn chuyện sống, chết. Sự sống không còn là sự trôi chảy đều đặn của thời gian hay thói quen. Trong sự thể hiện bản sắc cá nhân, con người chấp nhận tất cả, sẵn sàng đối phó với tất cả. Chỉ cần sống một khoảng thời gian nào đó là đủ, hay sống không phải để sống mà để chờ đợi. Cái chết cũng không gây nên sự buồn bã bình thường, nên mới có cái chết hùng tráng, có cái chết đẹp, có cái chết ngoài sức tưởng tượng. Trong một mớ nhân vật đông đảo, không nhân vật nào giống nhân vật nào. Một điểm chung cho tất cả nhân vật là ý chí, ai cũng đi hết con đường đã chọn, dù là đường chính hay tà. Ý chí ở đây được hun đúc nhờ sức mạnh. Sức mạnh thay thế luôn cho tư tưởng. Trong một không gian hỗn mang, ô tạp, tư tưởng khó lòng đóng vai trò dàn hòa, thiết lập.

    Nhưng không chỉ có sức mạnh trong truyện võ hiệp, bằng không nó chỉ có thể thay thế hỗn mang này bằng hỗn mang khác.

    Sứ mạng tái thiết trật tự, khai trừ những phần tử quá khích, hoàn thành những tổng hợp lẻ tẻ trước khi đạt tới tổng hợp tối hậu và tối đại vào hồi chung cục, được đặt vào tay những người thành tâm và hùng tâm. Vô Kỵ là một gương mặt tiêu biểu và xứng đáng hơn cả về phương diện này. Thanh niên này sinh ra ở vùng hoang đảo; mẹ chàng, Ân Tố Tố, được coi như người của một tà phái; cha đẻ của chàng, Trương Thúy Sơn, một con người hành hiệp lỗi lạc của một danh môn chính phái; cha nuôi của chàng, Tạ Tốn, rừng rú hung bạo. Vô Kỵ sẽ mang đủ ấn tích của huyết thống, tính tình của ba người ấy. Suốt đời chàng tâm niệm một điều: trả thù cho cha mẹ đẻ và cho nghĩa phụ. Trên con đường tìm thù, Vô Kỵ gặp phải vô số nhân vật và biến cố trong giới giang hồ. Vô Kỵ thông minh, dũng cảm, cao thâm cả võ thuật lẫn y lý, trọng nghĩa, vị tha, tình cảm, tốt bụng. Bấy nhiêu đức tính, Vô Kỵ bảo toàn dù trải qua muôn ngàn thử thách, hiểm nguy. Về phía bên nội, Vô Kỵ mang dòng máu của chính phái Võ Đang; về phía bên ngoại, Vô Kỵ là người của Bạch Mi giáo, tức là của Minh giáo mà người đời gọi là tà giáo. Cha mẹ chàng đã lấy nhau vì tình, công việc đầu tiên của chàng là hàn gắn những tị hiềm tất hữu giữa chính phái và tà phái. Trên bước đường lưu lạc từ còn tấm bé, Vô Kỵ bắt trí óc non nớt của mình suy nghĩ nhiều về hai chữ chính – tà, để cuối cùng nhận thấy rằng sự phân biệt của người đời chỉ có giá trị lý thuyết xây dựng trên mặc cảm và thành kiến. Đời cho chàng gặp một con người của Minh giáo tên là Thường Ngộ Xuân, một con người chí khí, hào hiệp làm Vô Kỵ xúc động quyết định kết nghĩa kim bằng với y. Với Vô Kỵ vấn đề không phải là tà hay chính. Chỉ có những con người xấu tốt có mặt ở bất cứ nơi nào. Chàng tin tưởng lạc quan vào con người, kể từ bản thân kể đi. Chàng sống trung thực và đem lòng cảm hóa những kẻ lạc đường. Chỉ có Vô Kỵ mới có đủ thẩm quyền đứng ra làm trọng tài cho quần hào và tìm cách hòa giải những dị biệt giữa bọn họ. Trong mục đích này, chàng dẹp tâm sự riêng tư của mình, tạm thời đảm trách chức vụ giáo chủ của Minh giáo. Khi Minh giáo đã tìm được một giáo chủ xuất chúng như Vô Kỵ, không những các thành phần ly khai của Minh giáo trở về quy tập dưới giáo kỳ, mà các đại môn phái khác cũng không dám miệt thị Minh giáo nữa. Do đó, ít lâu sau, tất cả đồng thanh nâng Vô Kỵ lên tột đỉnh danh vọng: đệ nhất cao thủ võ lâm. Từ đây mọi người, bất phân giáo phái, sẽ vâng lệnh Trương Vô Kỵ trong mưu đồ giành lại đất đai của Trung Hoa đang lọt vào tay quân Mông Cổ. Vô Kỵ, trên con đường thực hiện ước nguyện của mình là trả thù cho cha mẹ, đã hoàn thành một tổng hợp vĩ đại nhất mà tư tưởng gia hay chiến lược gia lớn nhất cũng phải bái phục.

    Minh giáo quy tụ đủ thành phần của dân gian: nam, nữ, nhà tu, người có tài y học, người giỏi thổ công hay hỏa công, người học binh pháp, kẻ điên khùng, đứa nuôi lòng phản trắc… Không một môn phái nào có thể ô hợp và đông đảo hơn Minh giáo.

    Minh giáo phát nguyên từ Ba Tư, nhưng khi truyền vào Trung thổ, tạo cho nó cái uy danh riêng về phương diện nhân tài, võ công cũng như tôn chỉ. Trong hàng ngũ Minh giáo, dưới giáo chủ, mấy người vai vế cao hơn cả là Tả Hữu sứ (hai người) và Tứ Đại pháp vương (bốn người).

    Tạ Tốn là một trong bốn vị pháp vương, danh hiệu Kim Mao Sư Vương (chúa sư tử bờm vàng), một nhân vật vô cùng đặc thù, một cuộc sống thể hiện tột độ cái bi đát thống thiết của kiếp người. Vốn là một nhân vật cao vời trong Minh giáo, Tạ Tốn nổi tiếng là con người cổ quái hoang dại, nhưng ân oán tình nghĩa phân minh cho đến ngày đại họa xảy đến cho gia đình, vợ bị hãm hiếp rồi bị giết cùng với gia đình, thủ phạm lại chính là sư phụ của Tạ Tốn.

    Đại họa thảm khốc và thương luân bại lý kia làm choáng váng kẻ anh hùng: Tạ Tốn đau đớn quá độ đến nổi điên, đổi thay tâm tính hoàn toàn. Tình sư đệ, nghĩa phu thê đảo lộn, tan nát. Đây chính là ngọn “thất thương quyền” tinh thần mà hoàn cảnh bắt Tạ Tốn chịu đựng.

    Từ đây, con người họ Tạ bay chạy khắp cùng, chân tay loạn xạ, gào rú như sư tử rống. Vì nội lực của đại hiệp thâm hậu vô lường, một tiếng rú cất lên, một cánh tay dang ra, là thương tích phải gieo rắc cho người cùng cây cỏ xung quanh. Biết bao nhiêu cây rừng nát thân, bao nhiêu lớp lá rụng lả tả, bao nhiêu người bật máu tai, loạn trí, chỉ vì một tiếng rú của Kim Mao Sư Vương. Tiếng rú bao hàm nội lực kinh thiên động địa, một tiếng thống thiết u uất đến lạnh người. Nỗi bi thương tới độ không diễn tả bằng lời, Tạ Tốn trở thành con sư tử điên tàn sát không nương tay. Hành động điên loạn của Tạ trong thâm căn chỉ nhằm một mục đích duy nhất: đổ tất cả tội lỗi lên đầu Thành Khôn – sư phụ của y – buộc Thành Khôn xuất đầu lộ diện mới mong rửa được đại hận. Thành Khôn càng chậm ra mặt, Tạ Tốn càng ra tay sát hại những người vô tội, đến nỗi cuối cùng không có môn phái nào là không có người bị Tạ Tốn giết hay đả thương. Tạ Tốn là một nhân vật võ lâm phi thường, cách hành sự cũng phi thường. Đến khi cơn điên bộc phát, tất cả dã tính bừng bừng sống dậy. Cái điên của Tạ Tốn vốn có nguyên nhân phức tạp nên hoành hành bừa bãi. Cái điên của Tạ Tốn như cuồng phong nước lũ, ngoài sự gây nên chết chóc còn bắt kẻ bàng quan ngột ngạt, không quan niệm nổi, không chịu đựng nổi. Hành động hỗn loạn của Tạ Tốn là một cách giải tỏa cơn điên, nhưng hỗn loạn chồng chất vỡ bờ lại càng làm cơn điên gia tăng. Hành động giết người và cơn điên của Tạ Tốn trói buộc nhau, vừa tương xung vừa tương liên, vừa đưa Tạ xa quần chúng và lún sâu vào đổ vỡ. Đối với bao nhiêu tội ác do Tạ gây ra, sẽ không thể có cách gì cho phép Tạ trở lại sống cuộc đời bình lặng nổi. Chỉ có cái chết của Tạ Tốn mới lấp được bể thù oán của quần hào. Quần hào tự nhiên liên kết đòi mạng kẻ thù chung. Tạ Tốn điên, nhưng điên phi thường, ý thức hậu quả việc làm của mình chẳng có cái gì làm Tạ kiêng sợ. Chỉ có một sự việc làm chuẩn đích cho đời Tạ Tốn: trả thù. Cũng là trả thù! Những cuộc trả thù vĩ đại nối tiếp nhau, nuôi dưỡng nhau. Bề ngoài những cuộc tàn sát liên miên làm cho ta ngao ngán, thất vọng. Tàn sát là hứa hẹn hỗn mang, thê lương tang tóc. Nhưng trong truyện võ hiệp, sự việc trình bày không tất nhiên như thế. Giữa đấu trường vẫn có trật tự. Đường kiếm, thế đao nào cũng muốn làm rạng rỡ sư môn. Thù hay bạn đều được trọng nếu quả là nhà võ hiệp. Trên tất cả, cái thiên lý sẽ an bài mọi sự. Người đọc có thể ngạt thở, sa sầm trước diễn biến gay cấn của câu chuyện, nhưng an tâm chờ đợi nước cờ phân minh tối hậu.

    Vậy ta có thể trông mong một sự trở về trật tự tối thiểu nào ở một Tạ Tốn điên loạn không?

    Sau trận giương oai và tàn sát ở Vương Bàn sơn, Tạ Tốn một mình với bảo đao Đồ Long đi tách biệt, trốn giang hồ, luyện thêm võ thuật mưu đồ phục hận. Thời gian này là thời gian tĩnh tâm của họ Tạ, phần nào nhờ đối diện ngày ngày với cảnh bao la vắng ngắt của Bắc cực. Biển gợi lên hình ảnh vô thủy vô chung của trời đất, cái nhỏ bé vô nghĩa của nhân sinh… Hỏa Diệm sơn sôi sục trước mắt Tạ Tốn không khỏi nhắc nhở y bao nhiêu mạng người đã ngã gục, bao nhiêu máu đã đổ vì một tay y. Cái điên của Tạ Tốn bây giờ được ý thức, tổ chức lại. Y sẽ nhờ thanh đao Đồ Long mà luyện võ thâm hậu hơn nữa để đương đầu với kẻ thù độc nhất: Thành Khôn.

    Ở Băng Hỏa đảo, Tạ Tốn không hoàn toàn cô độc. Hoàn cảnh bắt buộc y phải đem theo một đôi vợ chồng: Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố, sau này là cha mẹ của Vô Kỵ. Tính tình Tạ Tốn thuần phục dần dà, bắt đầu có những xúc động khi chứng kiến những cảnh bộc lộ tình cảm vợ chồng, cha con giữa ba người kia. Tạ Tốn nhận làm nghĩa phụ của Vô Kỵ. Từ nay Vô Kỵ sẽ là mối ràng buộc thâm thiết nhất của Kim Mao Sư Vương. Sự tỉnh trí của người điên là bắt đầu một cái khổ khác của người điên. Điên trọn đời không khổ cho bằng người điên nửa chừng phản tỉnh. Cho nên Tạ Tốn suốt đời không ngớt dằn vặt: kẻ thù ghê gớm nhất của y chính là y vậy. Tạ Tốn là một kẻ rừng rú tình cảm. Y là nạn nhân của tình cảm. Tình cảm nào của y cũng được đẩy đến chỗ cực đoan. Và nếu có một tình cảm mới lạ nào len lỏi vào con người y, tức thì gây nên sự xúc động nội tâm kịch liệt. Những cơn điên chan hòa nước mắt, những tiếng cười hồn nhiên xen lẫn tràng gào rú thanh thoát của Tạ Tốn ở Băng Hỏa đảo chứa đủ nỗi niềm của một con người khó sống. Trong cơn xung đột giữa ý chí phục thù và tình cảm phụ tử hồi sinh mãnh liệt, Tạ Tốn chọn một thái độ tạm thời khả dĩ chấm dứt xung đột đó: dứt khoát với người thân để sống xa lánh mọi người.

    Đó là thời gian dài mười năm trường một mình làm bạn với con hỏa hầu ở Bắc Cực của Tạ Tốn. Xa Vô Kỵ, Tạ Tốn dần dần hóa thân. Tạ Tốn ở Băng Hỏa đảo khác hẳn Tạ Tốn ở Vương Bàn sơn. Tình cảm trong con người của lão anh hùng trong một lúc vượt lên mức độ cuối cùng. Tạ Tốn yêu Trương Vô Kỵ hơn con đẻ. Bao nhiêu năm xa Vô Kỵ càng làm sôi sục tình phụ tử. Rời Băng Hỏa đảo để xuôi về Trung thổ cũng chỉ để dò hỏi tin tức của nghĩa tử yêu quý. Tạ Tốn bây giờ chỉ là một người cha. Một người cha mù hai mắt. Đôi mắt bây giờ là hai trũng bóng tối, mất hết cả oai linh. Chúng nói lên cái hết thời của một con sư tử tàn tật về già. Về tới Trung thổ, Tạ Tốn được ngay cái tin sai lầm báo Vô Kỵ qua đời. Tạ Tốn chỉ kịp rú lên một tiếng, đôi mắt vô hồn tuôn trào nước mắt. Phút thảm sầu thống thiết của Sư Vương làm lạnh buốt Linh Xà đảo. Bao nhiêu tình cảm, ân oán, hơn thua, thị phi, trong nháy mắt thành hư vô tất cả. Trong buổi yếu lòng, cái quá khứ đầy tội lỗi đổ xô về giày vò chút sinh khí còn sót lại trong con người anh hùng lỡ vận.

    Tạ Tốn buông thả mình cho quần hào hạch tội. Tạ không buồn chống cự, không phân giải, không van xin. Cái hư vô trong lòng không còn làm con người hụt hẫng, choáng váng. Nó đã tịnh yên, lan tràn khắp nẻo chung quanh. Tạ Tốn chân như được lòng mình, chỉ còn lắng nghe tiếng kinh xóa tan mọi thiên hạ sự. “Tạ Tốn hay đống phân bò cũng thế thôi”, lời cuối cùng của Kim Mao Sư Vương.

    Đời Tạ Tốn không còn bế tắc nào. Mọi ranh giới đều bị xô ngã. Người gần gũi với thần linh. Trong con người Tạ Tốn có cơn thịnh nộ của Zeus, có hồi nhập định của Thích Ca.

    Bửu Ý

    Hồi 1: Góc biển chân trời da diết nhờ chàng

    Mùa xuân bao phủ đất trời. Tiết Thanh minh hoa lê nở rộ. Cây ngọc phủ tấm áo choàng trắng như tuyết. Đêm khuya thanh vắng, vầng trăng vừa tắm, sương lạnh dăng dăng. Trên trời dưới đất, ánh trăng dát bạc.

    Thiếu nữ như một nàng tiên, thiên tư linh tú, vạn phần thanh khiết; dáng vẻ dịu dàng, khí phách tinh anh, tài hoa lạ thường, người phàm khó sánh. Gót sen nàng in dấu muôn nơi.

    Đó là bài từ nhan đề “Vô tục niệm” của một bậc võ học danh gia thời Nam Tống, họ Khưu, tên Xứ Cơ, đạo hiệu Trường Xuân Tử, một trong bảy vị Toàn Chân thất tử, một nhân vật xuất sắc của giáo phái Toàn Chân. Sách Từ phẩm bình phẩm rằng “Trường Xuân Tử được người đời coi là vị tiên, mà thi từ của vị tiên ấy cũng bất hủ như ngài”. Bài từ này ca ngợi hoa lê, thực ra là tán thưởng một bạch y thiếu nữ vô cùng diễm lệ, ví “như một nàng tiên, thiên tư linh tú, vạn phần thanh khiết; dáng vẻ dịu dàng, khí phách tinh anh, tài hoa lạ thường, người phàm khó sánh”. Mỹ nữ tuyệt trần ấy là Tiểu Long Nữ, truyền nhân phái Cổ Mộ. Nàng quanh năm vận bộ bạch y, trông chẳng khác gì “cây ngọc phủ tấm áo choàng trắng như tuyết”, cộng với thiên tính thanh khiết, y hệt “vầng trăng vừa tắm”, thật xứng với ba chữ “Vô tục niệm”. Trường Xuân Tử Khưu Xứ Cơ là láng giềng của nàng trên núi Chung Nam, sau lần gặp gỡ ấy đã viết bài từ trên.

    Giờ đây Khưu Xứ Cơ lánh về cõi hạc đã lâu, nàng Tiểu Long Nữ cũng đã kết duyên với Thần điêu đại hiệp Dương Quá. Trên con đường rừng ở núi Thiếu Thất tỉnh Hà Nam lúc này có một thiếu nữ đang cúi đầu ngâm ngợi bài từ kia.

    Thiếu nữ tuổi chừng đôi tám, vận bộ hoàng y, cưỡi con lừa xanh, đang thong thả đi lên núi, nghĩ thầm trong bụng: “Cũng chỉ có người như Long tỷ tỷ mới xứng với chàng”. Chữ “chàng” dĩ nhiên là chỉ Thần điêu đại hiệp Dương Quá. Nàng cũng chẳng buồn cầm cương, cứ mặc cho con lừa xanh chở nàng đi. Khá lâu sau nàng lại ngâm nga: “Hoan lạc thú, ly biệt khổ, tựu trung chỉ có nhi nữ si tình. Chàng thử nói xem, chàng đang ở chân trời góc bể nào đây?”

    Đoản kiếm bên lưng, sắc diện lộ vẻ phong trần, rõ ràng nàng viễn du đã lâu. Tuổi xuân như hoa, chính đang lúc hồn nhiên vô ưu, vậy mà sắc diện nàng lại phảng phất nỗi sầu muộn, đầu mày cuối mắt không thể che giấu được.

    Thiếu nữ này họ Quách, đơn danh có một chữ Tương, là thứ nữ của đại hiệp Quách Tĩnh và nữ hiệp Hoàng Dung, có một ngoại hiệu là Tiểu Đông Tà. Một lừa một kiếm, nàng chu du tha thẩn nơi này chốn nọ cho vơi nỗi sầu. Nào ngờ chốn danh sơn lẻ bóng chỉ càng thêm hiu quạnh, chẳng khác gì uống rượu quên sầu càng sầu thêm.

    Thế núi Thiếu Thất tỉnh Hà Nam hiểm trở, nhưng sơn đạo lại khá rộng và được lát các bậc đá, quy mô đồ sộ, tốn bao sức người, dài tám dặm này, được mở ra để vua Cao Tông đời Đường ngự giá Thiếu Lâm tự. Con lừa xanh của Quách Tương cứ cắm cúi đi, chỉ thấy từ trên quả núi đối diện có năm thác nước nhỏ đổ xuống, tung tóe muôn ngàn hạt ngọc; xung quanh trập trùng đồi núi, nhìn xuống bên dưới, vạn vật đã nhỏ như đàn kiến. Qua một khúc quành, thấy xa xa hiện ra một tòa tự viện tường vàng ngói xanh vô cùng bề thế.

    Nàng ngắm tòa đại tự một hồi, thầm nghĩ: “Thiếu Lâm tự vốn là nguồn gốc võ học của thiên hạ, nhưng hai phen luận kiếm ở Hoa Sơn, tại sao trong số Ngũ tuyệt hoàn toàn không thấy một vị cao tăng nào của Thiếu Lâm tự? Chẳng lẽ các vị hòa thượng Thiếu Lâm tự biết không nắm chắc phần thắng, sợ làm mất uy danh nên không dám phó hội? Hay họ dốc lòng tu luyện tinh thâm, võ công cái thế, nhưng không muốn tranh cường đồ thắng với người ngoài?”

    Nàng xuống lừa, thong thả đi bộ tới trước chùa, chỉ thấy cây cối um tùm, có một dãy bia đá. Các tấm bia đã bị hủy hoại quá nửa, chữ khắc mờ đi không còn đọc nổi. Nàng nghĩ: “Chữ khắc vào bia đá sau bao năm tháng còn bị mờ đi; vậy mà sao những gì khắc trong tim ta thì cứ càng ngày lại càng sâu đậm?”

    Trên một tấm bia lớn có khắc lời Đường Thái Tông khen ngợi tăng chúng Thiếu Lâm tự đã lập công giúp Đường Thái Tông dẹp loạn Vương Thế Sung. Khi Đường Thái Tông cất binh thảo phạt, các hòa thượng Thiếu Lâm tự đã đầu quân, trong đó mười ba vị lập công lớn. Nhưng chỉ có một hòa thượng là Đàm Tông nhận tước phong Đại tướng quân, còn mười hai vị kia không muốn làm quan. Đường Thái Tông bèn ban cho mỗi vị một tấm áo cà sa bằng lụa tía.

    Quách Tương nghĩ thầm: “Thời Tùy – Đường, võ công của Thiếu Lâm tự đã vang danh thiên hạ, mấy trăm năm nay lại càng thêm tinh xảo, chùa này ngọa hổ tàng long, hẳn có không biết bao nhiêu cao thủ”.

    Ba năm trước, Quách Tương chia tay với Dương Quá và Tiểu Long Nữ trên đỉnh Hoa Sơn, từ bấy đến nay nàng không nhận được tin tức gì về hai người ấy nữa. Nàng nhớ họ da diết, liền thưa với phụ mẫu, rằng nàng muốn đi du sơn ngoạn thủy; thực ra là để nghe ngóng tin tức của Dương Quá. Không nhất thiết nàng phải gặp gỡ phu phụ Dương Quá, chỉ cần hay tin họ hành hiệp như thế nào trên giang hồ là nàng đủ mãn nguyện rồi. Đằng này từ sau khi từ biệt, phu phụ Dương Quá không hề lộ diện trên giang hồ, chẳng biết họ ẩn cư chốn nào. Quách Tương đã đi từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, cơ hồ đi quá nửa đất Trung nguyên mà không nghe chút phong thanh gì về Thần điêu đại hiệp.

    Hôm nay tới Hà Nam, nàng chợt nhớ ở Thiếu Lâm tự có một vị hòa thượng là Vô Sắc thiền sư vốn là hảo hữu của Dương Quá, khi nàng tròn mười sáu tuổi, do nể tình Thần điêu đại hiệp, Vô Sắc thiền sư đã cho người mang quà đến mừng tặng nàng. Tuy đôi bên chưa diện kiến, nhưng nàng cứ thử tới thăm hỏi Vô Sắc thiền sư một phen, không chừng thiền sư biết được tung tích của Dương Quá cũng nên. Vậy là nàng tới Thiếu Lâm tự.

    Đang lúc xuất thần, bỗng từ phía sau cánh rừng có hàng bia vọng tới tiếng xích sắt loảng xoảng, một người đang tụng niệm kinh Phật: “Thị thời dược xoa cộng vương lập yếu, tức ư vô lượng bách thiên vạn ức đại chúng chi trung, thuyết thắng diệu già tha viết: Do ái cố sinh ưu, do ái cố sinh bố; nhược ly ư ái giả, vô ưu diệc vô bố”[1].

    Quách Tương nghe mấy câu kệ đó, bất giác sững người, nghĩ thầm: “Vì ái tình mà sinh lo buồn, vì ái tình mà sinh sợ hãi; nếu từ bỏ ái tình, sẽ khỏi lo buồn cùng sợ hãi”. Tiếng xích sắt và tiếng tụng kinh xa dần.

    Quách Tương nói nhỏ: “Ta phải hỏi người ấy làm thế nào mới từ bỏ được ái tình, làm thế nào mới khỏi lo buồn cùng sợ hãi?” Nàng bèn buộc con lừa vào một gốc cây, rồi vạch lá đuổi theo người kia. Chỉ thấy trên con đường mòn có một hòa thượng quẩy đôi thùng lớn, thong thả đi lên núi. Quách Tương rảo bước theo, khi còn cách vị hòa thượng bảy, tám trượng, thì nàng bất giác cả kinh – hóa ra đó là đôi thùng bằng sắt, to gấp đôi loại thùng gánh nước quen dùng; mà vị hòa thượng thì cổ, tay và chân đều bị tròng xích sắt to tướng, mỗi bước đi lại kéo dây kêu loảng xoảng. Riêng đôi thùng sắt đã nặng hai trăm cân lại đựng đầy nước, sức nặng thật kinh hồn. Quách Tương gọi: “Đại hòa thượng, xin dừng bước, tiểu nữ có điều cần thỉnh giáo!”

    Vị hòa thượng kia ngoảnh đầu lại, hai người nhìn thấy nhau cùng ngạc nhiên. Thì ra vị hòa thượng chính là Giác Viễn. Ba năm trước, hai bên đã có duyên diện kiến trên đỉnh Hoa Sơn. Quách Tương biết vị hòa thượng này tuy tính nết cổ hủ, nhưng nội công thâm hậu không thua kém bất cứ cao thủ nào, bèn nói:

    – Tưởng ai, hóa ra Giác Viễn đại sư. Tại sao đại sư lại đến nông nỗi này?

    Giác Viễn gật đầu, mỉm cười, chắp tay hành lễ, không nói một lời, quay mình đi. Quách Tương gọi:

    – Giác Viễn đại sư, đại sư không nhận ra tiểu nữ sao? Tiểu nữ là Quách Tương đây mà.

    Giác Viễn quay đầu lại, mỉm cười gật đầu, song vẫn không dừng bước.

    Quách Tương hỏi:

    – Ai xiềng xích đại sư như thế? Tại sao người ta lại ngược đãi đại sư tới mức này chứ?

    Giác Viễn giơ tay trái ra sau gáy xua xua ngụ ý nàng khỏi cần hỏi han.

    Quách Tương thấy có chuyện kỳ quái như vậy, chưa rõ nguồn cơn, lẽ nào nàng chịu để yên? Nàng chạy vọt lên tính chắn đường Giác Viễn, ai ngờ Giác Viễn tuy toàn thân đầy xích sắt, lại phải gánh đôi thùng sắt cực nặng, song Quách Tương chạy nhanh mấy cũng không thể đuổi kịp. Tính tự ái trẻ con trỗi dậy, nàng bèn thi triển thuật khinh công gia truyền, hai chân lướt như bay trên mặt đất. Khi tới gần, nàng giơ tay định chụp lấy miệng thùng sắt, nào ngờ chụp hụt, bàn tay vẫn còn cách miệng thùng hai phân. Quách Tương nói:

    – Bản lĩnh của đại sư quả lợi hại, tiểu nữ phải theo cho kịp mới được.

    Chỉ thấy Giác Viễn cứ thế đi tiếp, tiếng xích sắt vang lên như tiếng nhạc, càng lúc càng lên cao, vang đến tận sau núi.

    Quách Tương đuổi đã mệt, hơi thở hổn hển mà vẫn còn cách Giác Viễn hơn một trượng, bất giác thán phục thầm: “Hồi trên đỉnh Hoa Sơn, phụ mẫu ta có nói vị hòa thượng này nội công rất cao, ta không tin lắm. Hôm nay thử tài một chút, mới biết lời phụ mẫu ta quả nhiên chẳng sai chút nào”.

    Chỉ thấy Giác Viễn quay mình rẽ vào một tiểu thất, đổ hai thùng nước vào một cái giếng. Quách Tương rất đỗi ngạc nhiên, liền hỏi:

    – Đại sư có khùng hay không mà lại đi gánh nước đổ vào giếng chứ?

    Giác Viễn sắc diện vẫn bình thản, chỉ lắc đầu. Quách Tương chợt hiểu, cười nói:

    – Chà, thì ra đại sư đang luyện một môn võ công cao siêu.

    Giác Viễn lại lắc đầu.

    Quách Tương bực tức, nói:

    – Vừa nãy tiểu nữ đã nghe thấy đại sư tụng kinh rõ ràng không phải người á khẩu, tại sao đại sư không trả lời tiểu nữ?

    Giác Viễn chắp tay hành lễ, vẻ mặt sượng sùng, không thốt một lời, lại quẩy đôi thùng đi xuống núi. Quách Tương ngó thử vào trong giếng, chỉ thấy nước trong veo, cũng chẳng có gì lạ; nàng ngẩn người nhìn theo Giác Viễn đang đi xuống núi, trong lòng khó hiểu.

    Vừa rồi nàng gắng sức đuổi theo Giác Viễn nên bây giờ đã thấy thấm mệt, hơi thở còn hổn hển, nàng bèn ngồi xuống thành giếng ngắm phong cảnh. Chỗ nàng ngồi cao hơn Thiếu Lâm tự, nhưng nhìn lên thì núi Thiếu Thất vẫn còn cao ngất trời với những dải sương mù vắt ngang. Gió đưa tiếng chuông chùa từ phía dưới vọng lên khiến người nghe như trút hết phiền tục. Quách Tương nghĩ thầm: “Không biết đệ tử của vị đại sư kia ở đâu? Đại sư không chịu mở miệng thì mình đành tìm gã thiếu niên nọ hỏi cho ra lẽ”. Đoạn nàng lững thững đi xuống núi để tìm đệ tử của Giác Viễn tên là Trương Quân Bảo. Nàng đi một quãng, chợt nghe tiếng xích sắt loảng xoảng, thì ra Giác Viễn đã lại gánh nước lên núi rồi. Nàng bèn nấp sau một gốc cây, nghĩ thầm: “Mình phải ngầm theo dõi xem lão hòa thượng này rốt cuộc làm trò quỷ gì đây”.

    (còn tiếp)

    Nguồn: Ỷ Thiên Đồ Long Ký. Tiểu thuyết của Kim Dung – từng được dịch ra tiếng Việt là Cô gái Đồ Long. Đây là cuốn cuối cùng trong bộ tiểu thuyết Xạ điêu tam khúc. Hương Cảng Thương báo xuất bản lần đầu năm 1961 tại Hồng Kông. Lê Khánh Trường & Lê Việt Anh dịch từ nguyên tác. NXB Văn học, 2002.

    Bản điện tử của truyenkimdung.net/y-thien-do-long-ky/

    Mục lục: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54

    Bài viết liên quan

  • Nam Đế Vạn Xuân
    • Nam Đế Vạn Xuân

      Với hơn 500 trang, 15 hồi gay cấn, sinh động trong từng câu thoại của các nhân vật lịch sử, Tiểu thuyết Lịch sử Nam Đế Vạn Xuân nằm trong bộ Tiểu thuyết dài tập Vương triều tiền Lý của Nhà văn Phùng Văn Khai. Nam Đế Vạn Xuân tái hiện một cách sinh động lịch sử nước nhà xoay quanh triều đại của nhà nước Vạn Xuân (544-602) giúp chúng ta hiểu và tự hào hơn về lịch sử đánh giặc hào hùng của dân tộc. Với bộ nhân vật lịch sử đồ sộ của cả ta lẫn địch như: Lý Nam Đế, Tinh Thiều, Phạm Tu, Triệu Túc, Triệu Quang Phục, Phùng Thanh Hòa… hay Lương Vũ Đế, Vũ lâm hầu Tiêu Tư, Dương Phiêu, Lý Tắc… tạo nên rất nhiều tình tiết móc ngoặc, những cuộc đấu trí gay cấn hay những lời thoại sinh động của từng nhân vật. Nam Đế Vạn Xuân như một con tàu thời gian đưa ta ngược trở về từng quãng của lịch sử cách đây gần 1500 năm từ khi Lý Bí tu tập tại chùa Cổ Pháp đến thời điểm làm Giám quân ở Đức Châu và cuối cùng là đuổi giặc Lương lên ngôi tại điện Vạn Thọ. Đó cũng là lần đầu tiên Việt Nam có hoàng đế và niên hiệu Thiên Đức là niên hiệu riêng đầu tiên để chứng tỏ nước ta đã giành lại độc lập từ tay Trung Quốc.

    Tìm kiếm

    Lượt truy cập

    • Tổng truy cập57,866,039

    Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

       

      Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

      *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

    Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

      WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

      Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

      The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

      Enjoy life, enjoy Arita experience!