Tìm kiếm

Lượt truy cập

  • Tổng truy cập57,743,618

Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

     

    Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

    *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

    WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

    Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

    The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

    Enjoy life, enjoy Arita experience!

Tiểu thuyết

Quỷ Vương

Vũ Ngọc Tiến

  • Thứ năm, 13:07 Ngày 30/07/2020
  • Quỷ Vương

    Vua Trần Nhân Tông lại nói: “Có ba thứ vô cùng đều được ba giáo bàn đến. Vô cùng lớn của cõi Trời thuộc về Lão giáo, vô cùng phức của cõi Người thuộc về Nho giáo, vô cùng vi diệu của cõi Tâm thuộc về Phật giáo. Gộp ba cái vô cùng là đạo của ta.” Thời Lý- Trần, nhờ hệ tư tưởng tam giáo đồng nguyên nên trong tâm thức người học ba hệ tư tưởng nương tựa và chuyển hóa qua nhau, tranh biện và phản bác lẫn nhau. Cởi mở tư tưởng sẽ giúp tâm tính người học lành hiền tử tế, khoáng đạt mà vẫn cẩn trọng, bao dung mà vẫn yêu ghét rõ ràng. Độc tôn một hệ tư tưởng tất sẽ dẫn đến độc quyền chân lý, con người dễ bị mê lạc, cái ác lấn cái thiện, thói kiêu căng và tự mãn, ích kỷ và gian dối sẽ lộng hành trong xã hội. Lại nói về chuyện thời Lê sơ rước về một thứ đạo Nho làm hệ tư tưởng độc tôn đã vô tình làm một việc oái oăm là đánh giặc xong rồi ta lại tự nguyện để cho giặc nô dịch ta bằng hệ tư tưởng hủ lậu. Lấy đạo Nho thời Tống làm hệ tư tưởng độc tôn lại càng nguy hiểm. Đạo Nho thời Tiên Tần có những cái hay mà đạo Nho thời Tống làm cho mai một. Theo học giả Nguyễn Hiến Lê đánh giá, “công lao lớn nhất của Khổng Tử là đã phát hiện và đề cao thuyết chính danh”. Ta hay nói, danh có chính ngôn mới thuận là theo nghĩa hẹp, thực ra thuyết chính danh nghĩa nó rộng và thâm sâu lắm. Danh là vua nắm vận mệnh của nước nên mọi suy nghĩ và hành động phải vì nước, vì dân chứ không vì ngai vàng của mình. Danh là quan cai quản một địa hạt tất phải liêm chính, phải làm cho dân hiểu luật để họ tự nguyện chấp hành, nếu dùng hình phạt hà khắc hay sức mạnh quân đội để ép buộc thì dân sẽ sợ mà làm theo chứ lòng không phục tất sẽ loạn. Danh là sĩ phu có học phải biết dùng lý lẽ mà hành xử mọi việc, xét đoán đúng sai để hưởng ứng hay phê phán người khác dù họ là vua hay quan… Đánh giá về Mạnh Tử, thầy Hạnh vừa bảo ta rằng ông có hai cống hiến là thuyết “Trung dung” và óc thực dụng. “Trung dung” của Mạnh Tử khá gần với “Bản thể luận” của Lão Tử hay phép ứng xử “Lục hòa” của Phật tổ bởi với thế giới tự nhiên ông quan niệm trung dung giúp vạn vật sinh trưởng hài hòa như nó vốn thế; còn với thế giới nhân sinh ông quan niệm “Trung dung” giúp con người ta hòa đồng với nhân quần trong mọi cảnh huống. Mạnh Tử thực dụng bởi ông coi trọng hành đạo hơn học đạo, ông nói: “Nếu đem lẽ trước sau mà xét thì học trước mới biết để hành; còn nếu đem lẽ nặng mà cân thì hành nặng gấp mười lần học”. Những điều hay ho ấy của đạo Nho thời Tiên Tần đến đạo Nho thời Tống không còn nữa. Nho học thời Tống lấy vinh thân phì gia, kiếm chút quan tước làm mục đích của người học, chứ không học để làm người. Lối học khoa cử đã giết chết tư duy sáng tạo nên người học chỉ biết tầm chương trích cú, hễ mở mồm là thánh phán thế này, sách dạy thế kia chứ trong bụng rỗng tuếch. Trong nhà bầy la liệt sách, nhưng với rất ít người có thực học thì cất ở thư phòng, còn đa phần trưng ra ở phòng khách để khoe mẽ lòe người, chắc gì đã đọc hay hiểu. Đó là căn nguyên sâu sa của bênh thành tích, thói gian dối. Xưa đã vậy và nay cũng thế. Lối học ấy chỉ sản sinh ra những con vẹt, bầy cừu, đàn lợn, nhưng khi có quyền rồi thì tham lam, tàn ác như quỷ dữ. Nền học nước nhà bắt đầu từ thời Lê sơ bị rập khuôn theo Nho học thời Tống chính là thảm họa cho nước Việt. Đất nước thanh bình, giầu có càng lâu thì nền học hư danh, vô tích sự ấy càng có cơ hội phát triển làm hư hỏng lớp trẻ trong hoàng tộc và trong giới quan lại trước nhất. Lê Thánh Tông là vị vua anh minh, tài năng xuất chúng, nhưng ông vẫn dẫm theo lối mòn sai lầm của Lê Thái Tổ. Dưới triều đại của ông, đạo Nho càng trở thành hệ tư tưởng độc tôn thống soái, các vị cao tăng uyên bác đều bị xua đuổi ra khỏi kinh thành, dạt về miền quê hẻo lánh. Vậy nên sau cái bề ngoài của một quốc gia cường thịnh, tác động của Nho học hủ bại đã thấm sâu vào cơ thể đất nước, hình thành những ung nhọt. Hậu quả nhãn tiền là sau khi ông chết ung nhọt phát tác, vương triều nhà Lê lao nhanh xuống dốc của sự suy đồi kéo dài triền miên 30 năm qua năm đời vua, đất nước chìm trong loạn lạc, dân chúng điêu linh tiếng than rầm trời dậy đất…

    Trong đời đi học của Dân, thầy Hạnh vừa như người cha lại vừa như người bạn, gắn bó bên anh từ thủa bé thơ đến tận bây giờ. Hôm nay giữa khung cảnh linh thiêng của núi rừng Hoàng Liên, dưới mái ngôi chùa cổ Sùng Miên bằng gỗ, anh lại được nghe thầy giảng bài, càng thấy sáng bừng tâm thức, kính phục sức học phi thường và trí tuệ mẫn tiệp của thầy. Dân cứ muốn nghe thầy giảng mãi, như ngày xưa lớp học của anh nài nỉ thầy kể tiếp câu chuyện lịch sử trong cả giờ nghỉ năm phút giữa hai tiết học. Anh nói:

    - Thầy ơi! Con muốn xin thầy giảng giải tiếp cho con nghe về đạo Phật ở Việt Nam, vì sao nó lại hấp dẫn vua Trần Nhân Tông vứt vỏ ngai vàng như vứt đôi dép rách để lên núi Yên Tử tu hành đắc đạo? Có thế con mới hiểu sâu hơn sai lầm của Lê Lợi khi vứt bỏ tam giáo đồng nguyên, thầy ạ!  

    - Ở Việt Nam ta người nghiên cứu sử phải đọc qua tam giáo thì trang giấy viết ra mới có hồn. Còn nhớ năm con vừa nhận công tác ở Viện, thầy đã lục trong đống sách cũ ở nhà, tặng con cuốn “Nho giáo” của học giả Trần Trọng Kim và cuốn “Tư tưởng phương Đông gợi góc nhìn tham chiếu” của học giả Cao Xuân Huy. Theo thầy, đến nay ở nước ta chưa ai vượt qua hai người ấy khi luận bàn về đạo Nho, đạo Lão. Sách về đạo Phật có rất nhiều, nhưng thầy vẫn chưa tìm được cuốn nào ưng ý để tặng con sao cho lời bàn phải thật cô đọng, dễ hiểu như hai cuốn kia. Sẵn đây, ngay trong chùa Sùng Miên này có pho sách sống là Thiền sư Kiến Phúc, con nên thỉnh giáo Thiền sư kẻo lỡ mất dịp may.

    Đêm ấy, nhằm giờ Thiền sư Kiến Phúc đang thanh thản ngồi đọc kinh sách nhà Phật, thầy Hạnh dẫn trò Hiếu Dân lên thư phòng của Ngài. Anh đã được tắm mình trong biển học mênh mông, mê mẩn ngồi nghe Thiền sư giảng bài học vỡ lòng về đạo Phật.

    - Bạch thầy! Con xin phép được hầu chuyện thầy có gì phiền phức không ạ!

    - Không sao thí chủ cứ nói.

    - Xin thầy nói qua cho con nghe về đạo Phật ở Việt Nam.

    - Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Ta được Tỳ Kheo trong chùa là thầy giáo Hạnh cho biết thí chủ là nhà nghiên cứu lịch sử, rất cần biết qua về đạo Phật. Người như thí chủ chắc không cần nói dài, vậy ta chỉ tóm tắt vài nét. Lịch sử đã từng xác nhận Phật học vào Việt Nam trước nước Tầu chứ không phải ngược lại như nhiều người lầm tưởng. Pháp sư Đàm Thiên trả lời vua Cao Tổ nhà Tuỳ bên Tầu rằng: "Cõi Giao Châu có đường thông sang Tây Trúc gần hơn ta. Khi Phật giáo chưa du nhập vào đất Giang Đông vùng Hoa Hạ, thì ở cõi ấy đã xây được 20 ngọn tháp, độ hơn 500 tăng sĩ, dịch được 15 bộ kinh rồi." Thời Bắc thuộc, nhà Đường đô hộ nước ta, đã có nhiều vị sư tăng từ Giao Châu sang tận cung vua nhà Đường giảng dạy kinh Phật. Lê Quí Đôn trong sách Thiền Dật có ghi lại bài thơ của thi sĩ đời Đường là Dương Cự Nguyên viết khi tiễn biệt pháp sư Phụng Đình rời Tràng An trở về quê Nam Việt:

    Cố hương Nam Việt ngoại

    Vạn lý bạch vân phong

    Kinh luân từ thiên khứ

    Hương hoa nhập hải phùng

    Lộ đào thanh phạm triệt

    Thần các hoá thành trùng

    Tâm đáo Tràng An mạch

    Giao Châu hậu dạ chung

    Dịch là:

    Quê nhà ngoài Nam Việt

    Muôn dặm núi trắng mây

    Kinh luân rời Trung Quốc

    Hương hoa nhập biển khơi

    Sóng biếc còn in dấu

    Lầu trai lại hoá thành

    Trường An mạch sầu nặng

    Giao Châu chuông đêm thâu

    Đời Võ Hậu nhà Đường (năm 685), thi sĩ Trầm Thuyên Kỳ đã từng lặn lội đến đất Cửu Chân của nước ta để yết kiến Vô Ngại Thượng Nhân ở chùa Sơn Tĩnh, tự nhận mình là đệ tử của Ngài. Lúc về nước, thi sĩ còn để lại bài thơ dài tỏ lòng hâm mộ, kính phục sư phụ. Bốn câu mở đầu như sau:

    Đại sĩ sinh Thiên Trúc

    Phân thân hoá Nhật Nam

    Nhân trung xuất phiền não

    Sơn hạ tức Già Lam

    dịch là:

    Phật xưa sinh ở Tây Thiên

    Mà nay xuất hiện tại miền Nhật Nam  

    Thoát vòng phiền não cõi phàm

    Thảnh thơi dưới núi Già Lam một toà.

    Một vài cứ liệu lịch sử vừa nêu đủ cho thấy Phật giáo ở Việt Nam có từ rất sớm và ảnh hưởng khá mạnh đến sự ra đời và phát triển các Phật phái Đại Thừa ở bên Tầu. Ngay như vấn đề tông phái Phật giáo, có nhiều học giả phương Tây lầm lẫn cho Thiền tông là sản phẩm riêng đặc sắc của Phật giáo Trung Hoa. Thật ra, Thiền tông có ở Đại Việt trước, sau mới truyền vào Hoa Nam bên Tầu và phát triển lên một trình độ mới, cô đúc trong "Pháp bảo đàn kinh" của đại sư Huệ Năng (520) người tỉnh Phúc Kiến. Thiền phái Trúc Lâm ở Việt Nam kể từ khi vua Trần Nhân Tông sáng lập ra trên núi Yên Tử vào cuối thế kỷ XIII đến nay đã trải 3 vị tổ. Tuy nhiên, nếu xét đến lịch sử của các tông phái thì Phật học Thiền tông ở Việt Nam có vị tổ đầu tiên là Khương Tăng Hội. Ông là đệ tử của hai nhà truyền giáo Ấn Độ Sona và Uttara, những người đầu tiên đưa đạo Phật vào Việt Nam. Thời Tam Quốc bên Tầu, Khương Tăng Hội cũng đã từng đem Thiền học sang truyền bá ở nước Đông Ngô của Tôn Quyền. Tiếp đến là Tỳ Ni Đa Lưu Chi người Ấn Độ, vào Việt Nam khoảng từ năm 569 đến 582, trụ trì và giảng dạy Phật pháp tại chùa Pháp Vân. Kế tục và phát triển tư tưởng Thiền tông ở Việt Nam vào thời Bắc thuộc là sư Pháp Hiền ở đất Kinh Bắc rồi đến 2 vị pháp sư nổi tiếng Duy Giám và Vô Ngại Thượng Nhân đều ở đất Cửu Chân. Từ cuối thế kỷ X sang đầu thế kỷ XI (932 -1011) Phật giáo lại có bước tiến mới, dưới triều nhà Đinh là sư Ngô Chân Lưu tức Khuông Việt đại sư và sư Vạn Hạnh ở đất Kinh Bắc dưới triều Lý Thái Tổ. Sách "Đại Nam thiền uyển tập lục" viết: "Sau khi Tỳ Ni Đa Lưu Chi tịch, Pháp Hiền vào Từ Sơn tập định. Thân hình như cây khô, vật ngã đều quên, giống chim bay đến thân mật, loài thú rừng quấn quít... Người bấy giờ mộ tiếng đến học đông không kể xiết. Ngài bèn dựng chùa dạy học, cư tăng lúc nào cũng hơn 300 người. Thiền tông phương Nam bấy giờ thịnh nhất". Có thể nói, đạo Phật ở Việt Nam phát triển rực rỡ nhất vào các triều vua đầu thời Trần. Bằng tuệ giác tuệ giác minh mẫn, tầm nhìn khoáng đạt của vị vua anh hùng xuất chúng, Trần Nhân Tông đã thống nhất Tam giáo vào trong một chữ Tâm và khởi xướng thuyết “Tu trong một kiếp”, nghĩa là xuất thế, thoát tục, “đốn ngộ thành Phật” rồi sẽ trở lại nhập thế, giáo hoá muôn người, kiến tạo thế giới đại đồng, kiêm ái, tương lợi. Nó đã thành hệ tư tưởng đặc sắc riêng của nước Đại Việt ta thời đó. Tiếc rằng đến thời Lê Thái Tổ lên ngôi đã vứt bỏ nó, kể từ đây nước ta mất đạo là điều nguy hại vô cùng cho nền học nước nhà. Điều này thí chủ đang nghiên cứu “Lịch sử 100 năm thời Lê sơ” chắc hẳn đã hiểu rõ hơn ta rất nhiều…

    - Bạch thầy! Con lại xin thầy nói thêm đôi điều cô đọng về tinh thần triết học trong đạo Phật Thiền tông Trúc Lâm ở Việt Nam.

    - Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Thí chủ nói triết học ư? Hai tiếng ấy ta nghe cao vời, xa lạ quá! Ta chỉ là một Đại Đức, chức phận nhỏ nhoi làm sư  trụ trì ngôi chùa gỗ trên núi cao hẻo lánh. Trên ta còn vô số chư Tôn Đức: Thượng Tọa, Hòa Thượng cao minh sao ta dám lạm bàn một điều to tát thế…

    - Bạch thầy! Con chỉ nghĩ mỗi đạo đều có cái lõi tư tưởng xuyên suốt mà giới nghiên cứu chúng con gọi là tư tưởng triết học của đạo, chứ con không dám dùng hai tiếng ấy để chơi chữ trước mặt Thiền sư, mong thầy từ bi lượng xá và chỉ dạy tiếp.

    - Vậy ta cũng sẽ nói vài lời vắn tắt nương theo sở học còn nhiều khiếm khuyết của mình cho thí chủ nghe vậy. Với người nhập môn Phật học ai cũng đều biết đến khái niệm sơ đẳng ban đầu về ba ngôi báu của nhà chùa gọi là tam bảo gồm: Phật, Pháp, Tăng. Phật và Tăng chắc thí chủ đã rõ, khỏi cần giải thích. Pháp là kinh sách chép lời răn của Phật tổ, Bồ tát và lời bàn minh triết của các vị cao tăng, sách luật chép các quy định tu hành.Tư tưởng đạo Phật nằm trong kinh sách trải mấy nghìn năm gom lại có tới hàng trăm pho kinh sách. Ngôn ngữ nhà Phật thường ngắn gọn ảo huyền, u u minh minh nên thường khó tiếp cận và biện giải. Số lượng kinh sách khiến ta đọc cả đời không chắc đã hết và hiểu thấu. Tuy nhiên với người cần tìm hiểu sơ như thí chủ, ta có thể nói gọn rằng tất cả kinh sách ấy nhằm giải quyết cái gọi là “tứ diệu đế” gồm: khổ đề, tập đề, diệt đề và đạo đề. Giờ ta xét đến nội dung ngắn gọn của từng “đề” trong “tứ diệu đế”. Thứ nhất, “khổ đề” là nhận thức của đạo Phật về thế giới, về nhân sinh rằng đời là bể khổ, nước trong bốn biển không nhiều bằng nước mắt chúng sinh. Phật dạy có 8 thứ khổ là sinh, lão, bệnh, tử rồi đến cái khổ yêu mến mà phải xa nhau, khổ vì ghét nhau mà vẫn phải ở với nhau, khổ vì muốn mà không được, cuối cùng là “ngũ thủ uẩn khổ”. Cái khổ thứ tám này cần giải thích cho thí chủ rõ vì nó bao chứa 5 yếu tố mang ý nghĩa triết học bên trong gồm: sắc là yếu tố vi diệu tạo nên vật chất, thụ là yếu tố cảm nhận vật chất, tưởng là yếu tố gây cho ta ấn tượng mà cảm nhận được, hành là yếu tổ thể hiện khả năng tư duy sau khi đã cảm nhận được, thức là yếu tố phán đoán khi đã chứng ngộ về một dạng hay trạng thái biến đổi của sự vật. 5 yếu tố này luôn thường trực trong một con người, buộc ta phải hành xác từ lúc sinh đến lúc tử nên là cái khổ lớn nhất, dai dẳng nhất. Đạo Phật gọi đó là ý thức đậm. Thứ hai, “tập đề” là sự biện giải về 8 cái khổ vừa nêu trong mối quan hệ nhân quả mà đạo Phật gọi là nhân duyên. Ở đây nên hiểu nhân duyên bao gồm nguyên nhân và kết quả của sự việc; có quả thì phải có nhân; quả này lại sinh ra nguyên nhân dẫn đến quả kia. Nó là một vòng tuần hoàn không dứt, cái vừa là quả vừa là nhân ấy chính là duyên vậy. Từ nhân duyên đạo Phật đi đến nhận thức thế giới và nhân sinh. Về thế giới quan, đạo Phật đưa ra 4 luận điểm triết học, đó là vô tạo giả, vô ngã, vô thường và nhân quả tương tục. Với 4 luận điểm quan trọng này nếu đem diễn giải, bình luận kèm theo dẫn chứng có lẽ phải viết ra hàng trăm, hàng ngàn trang sách. Ta biết thí chủ không có đủ thời gian để nghiền ngẫm nó nên chỉ cần tóm lược vài ý căn cốt: Vô tạo giả tức là thế giới không có kẻ sáng tạo ra vì cái gì cũng có nhân duyên của nó. Điều này chứng tỏ đạo Phật là thuyết vô thần nhưng không duy vật vẫn chỉ là duy tâm thôi, dẫu sao đó cũng là nét hay so với nhiều thuyết khác trên thế giới. Vô ngã là con người ta do ngũ uẩn sinh ra, các yếu tố sắc, thụ, tưởng, hành, thức hội tụ ngẫu nhiên, không ổn định nên cũng không có cái tôi cố định. Vô thường là mọi vật có thể biến mất đi trong chốc lát. Phật chia ra hai loại biến mất: sinh- vãng- diệt nghĩa là sinh ra lảng vảng rồi diệt vong; sinh- dị- diệt nghĩa là sinh ra biến đổi rồi diệt vong. Nhân quả tương tục nghĩa là nguyên nhân và kết quả cứ nối tiếp nhau mà biến chuyển, tuần hoàn vô định. Phật dạy rằng, ai hiểu thấu và thực hành theo 4 điểm trên sẽ như người có giấy thông hành vào cõi Niết Bàn. Về nhân sinh quan, đạo Phật dùng thập nhị nhân duyên để giải thích nỗi khổ của con người, của nhân loại gồm có: vô minh duyên, hành duyên, thức duyên, danh sắc duyên, lục nhập duyên, xúc duyên, thụ duyên, ái duyên, hữu duyên, sinh duyên và lão tử duyên. 12 nhân duyên ấy đi từ vô minh đến chết là một vòng của kiếp người. Từ không sáng suốt phát sinh ra cái nghiệp và làm cho phiền khổ xuất hiện. Nghiệp tức là vạ, là tai ương và có 3 thứ gồm thân nghiệp, ý nghiệp, khẩu nghiệp… Thứ ba, diệt đề nói gọn là khi đã biết rõ mọi cái khổ đều có nguyên nhân thì phải diệt khổ. Con người ta hết khổ mới có thể an thân, tự tại được. Muốn diệt khổ, Phật hoàng Trần Nhân Tông dạy rằng phải “tự độ độ tha, tự giác giác tha”, nghĩa là tự độ cho mình, cho người và tự giác ngộ để khi đã đến bờ giác ngộ thì quay lại với chúng sinh mà giác ngộ kẻ khác. Xem thế đủ biết đạo Phật của Thiền tông Trúc Lâm không hề thụ động, cũng không hề yếm thế xa lánh cõi đời như nhiều người lầm tưởng. Thứ tư, đạo đề chính là phương pháp diệt khổ, cũng là lời khuyên cho chúng sinh hãy nương nhờ hồng ân tam bảo: Phật- Pháp- Tăng. Ba ngôi báu ấy hiện diện quanh ta ở các ngôi chùa làng khiêm nhường nép sau lũy tre chứ không nhất thiết phải xây chùa thật to đẹp, tốn tiền của dân mà có khi “hảo tự ố tăng”, nghĩa là chùa to có khi làm hỏng đức hạnh của tăng, ảnh hưởng không tốt đến phật tử. Đến chùa, phật tử không cầu tài cầu lộc, chỉ dưỡng tâm tu thiền cho cái tâm an định. Khi tâm ta đã an định sâu dục vọng mới chịu ngủ yên, trí tuệ phát sáng để ta được sống trong hoan lạc, hướng tới một thế giới đại đồng kiêm ái tương lợi. Cái gọi là lõi tư tưởng hay tinh thần triết học của Thiền tông Trúc Lâm ở Việt Nam, ta chỉ nói ngắn thế thôi, thí chủ có hiểu chăng? Năm xưa, vua Trần Nhân Tông sau khi đánh thắng giặc Nguyên- Mông, Ngài bỗng day dứt trong lòng về một thế giới bất an, chiến tranh làm con người chết thảm vô ích mà cội nguồn của nó là lòng tham vô độ và sự đố kỵ, thù hằn. Ngài đã vứt bỏ ngai vàng lên núi Yên Tử sáng lập ra đạo Phật đặc sắc riêng của Việt Nam trên nền tảng hệ tư tưởng tam giáo đồng nguyên nhằm hướng tới cái đích cao cả là sự hòa giải giữa các quốc gia, các tộc người, các phe phái chính trị hay các giai tầng xã hội, trào lưu tư tưởng… Hệ tư tưởng ấy là quốc bảo, là di sản văn hóa phi vật thể vô giá, nhưng nhà Lê, khởi đầu là vua Lê Thái Tổ và đặc biệt dưới triều vua Lê Thánh Tông đã phũ phàng vứt bỏ. Tiếc lắm thay!...  

    Dân quay về phòng, thầy Hạnh đã ngủ say. Lời than cuối cùng của Thiền sư Kiến Phúc như vẫn còn văng vẳng bên tai, mang mang lan xa trên đỉnh núi Hoàng Liên. Ngoài kia bầu trời tối thâm màu mực. Đêm chìm vào sâu. Con tắc kè ném lưỡi vào đêm nghe buồn tê tái… Sáng dậy, Dân nhận được điện thoại của Dung, nàng nói với anh đủ thứ lo ngại trong lòng: lo anh đi tầu đêm vất vả; sợ anh ở lâu trên độ cao không khí loãng sẽ hại cho người bệnh phổi; lo anh về rồi không biết giữ gìn sức khỏe, làm việc vô độ, ăn uống kham khổ sẽ không chịu nổi những lần chạy xạ hay chạy hóa chất… Cuối cùng Dung nói như ra lệnh cho anh phải ngồi xe để Giàng A Phú đưa về Hà Nội. Dân một mực từ chối và Dung đã khóc… Hồi lâu Dung gọi điện lại, báo tin đã tìm ra cách mới để Dân khỏi cảm thấy khó xử. Nàng đã gửi tiền qua eBanking  cho Hương, nhờ bạn thuê xe rồi lên chơi với cu Bil, bé Kel một lúc, sau đó kết hợp đón Dân về Hà Nội, tiện cả đôi đường. Thầy Hạnh nghe vậy cũng khuyên anh nhận lời cho Dung và Hương vui lòng. Dân vội thu xếp hành lý. Thầy Hạnh đưa tiễn anh một chặng đường mòn xuống chân núi. Dọc đường thầy buồn rầu nói:

    - Con về nhớ lời thầy dặn, hễ có dấu hiệu trở bệnh nặng thêm thì phải gọi điện báo tin cho thầy. Đề tài thế cũng tạm ổn rồi, đừng thức khuya hại người lắm!

    - Vâng, con sẽ ghi nhớ lời thầy dặn.

    - Thầy mừng vì thấy con viết đề tài về lịch sử, nhưng vẫn khéo léo đưa vào nhiều kiến nghị về cải cách giáo dục, đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông. Thầy đã đọc mấy bài trên báo tường thuật buổi nói chuyện của anh Quyền. Anh ấy kể ra cũng là người giỏi biến cái của người thành của mình, nhưng xét kỹ thì cũng tốt thôi. Có người làm quản lý ở cấp cao như Quyền mà biết đến và quan trọng hơn đã phải thừa nhận ý kiến của con là đúng. Một ý tưởng hay của con, nhưng gắn vào miệng người làm quan như anh Quyền nói có gang có thép, may ra sẽ động đến “thiên đình”, con ạ!

    - Thưa thầy, con cũng nghĩ vậy nên đã nhờ Dung chuyển lời cảm ơn anh Quyền.

    Dân xuống đến chân núi, xe đã chờ sẵn. Anh lưu luyến chia tay thầy Hạnh, cùng Hương xuôi về Hà Nội. Lòng anh rợn ngợp niềm vui vì phần kết của đề tài đã khơi thông. Anh quay sang Hương nắm lấy tay nàng bóp nhẹ, thầm cảm ơn hai người bạn sâu nặng nghĩa tình và… mãi mãi hai em vẫn chỉ là bạn thôi. Buồn ơi chào mi!...

    10. Người mới về tỉnh K

    Ông Bình vừa từ K xuống Hà Nội, tranh thủ ghé thăm nhà nghiên cứu lịch sử Bùi Hiếu Dân. Từ sau lễ tang nhà báo Quang Huy, nhờ có Dân giới thiệu làm quen với vợ con và đồng nghiệp của người quá cố, ông Bình đã tìm được một USB chứa đựng nhiều thông tin quý giá. Quang Huy là người cẩn trọng nên đã lưu riêng tất cả tư liệu điều tra về tỉnh K vào hai USB, một gửi cho vợ, một gửi cho bạn thân ở tòa soạn cùng bí mật cất giữ. Tư liệu điều tra trong chuyến đi cuối cùng bị mất cũng không quan trọng vì nó do chính ông Bình cung cấp cho nhà báo là chính, những thông tin khác có thể dò dần cũng sẽ tìm ra hết. Dọc đường từ trụ sở Thanh tra chính phủ đến khu Trung Tự tìm nhà của Dân, ông Bình chộn rộn một niềm vui khó tả. Ông nghĩ, có được bảo bối từ USB của nhà báo xấu số, mình làm việc với các vị ở Trung ương tư thế oai hẳn lên, chẳng còn bị ghẻ lạnh, dằn hắt hay quát mắng như trước nữa. Ngần ấy năm lộng hành được ở K, ông Quyền và tập đoàn Bil- Kel chắc hẳn đã mang tiền đô về Hà Nội rải kín các cửa như cây rừng Hoàng Liên trút lá mùa đông chứ bỡn. Thảo nào lúc đầu mình mang đơn đi kêu kiện về vụ án mạng bí hiểm xảy ra với chị Thơ hay đơn tố cáo những vụ bê bối ở nhà xanh, nhà đỏ của tỉnh, rồi việc làm ăn mờ ám của con bạch tuộc Bil- Kel đều rơi vào im lặng khó hiểu. Giờ thì khác rồi, mình vừa được ông Phó thanh tra đích thân tiếp chuyện trong phòng lạnh, hỏi han niềm nở, hứa hẹn đủ điều. Ở bên Ban kiểm tra Trung ương và Cục điều tra của Bộ Công an cũng vậy, tiếp mình toàn nhân vật có cỡ, ai cũng khen ngợi, động viên, hứa sẽ xem xét kỹ. Dù bây giờ trên tỉnh K mình vẫn bị coi là thằng phá bĩnh, nhiễm phải nọc độc tuyên truyền khích động của thế lực thù địch, nhưng may vì anh em trong Ban lãnh đạo “Mặt trận” nhiều người còn lương tri, có dũng khí đứng ra bảo vệ nên cái chức mọn Phó chủ tịch “Mặt trận” này vẫn còn… Mang nặng trong lòng bao ý nghĩ, ông Bình đến nhà Hiếu Dân gặp lúc anh vừa ăn cơm trưa  xong. Ông bước vào nhà, gặp Hương cũng ở đó liền mừng rỡ reo lên:

    - May quá! Tôi gặp chị Hương lúc này là ông trời không phụ lòng mình rồi.

    - Sao thế hở bác Bình?

    Hương chưa hỏi hết lời đã thấy ông Bình mở chiếc cặp da, lấy một bịch to, gói kỹ trong tờ báo Đại đoàn kết và nói:

    - Đây là năm thang thuốc bắc, tôi đã phải nhờ người viết ra từng vị bằng chữ Hán, sao chép đúng y như thang “chí cường” ngày xưa cụ Mao tặng cụ Hồ đấy. Thế rồi sau đó tôi lại phải nhờ ông em họ mang đơn thuốc này sang bên kia biên giới cân tại gốc cho đủ và đúng vị chứ ở bên này người ta hay thay bằng các vị thuốc đã di thực, đang trồng đại trà trên huyện B, tỉnh K là kém hẳn giá trị. Anh Dân chắc bận việc, nhờ chị mang về sắc cho anh ấy uống bồi bổ sức khỏe.

    - Quý hóa quá! Em sẽ mang về sắc ngay tối nay cho anh Dân uống dần. Độ này phải chạy hóa chất nên sức khỏe anh ấy kém lắm.

    Hương đưa tay đón nhận mấy thang thuốc bổ rồi chào hai người, tất tưởi đi ngay cho kịp giờ làm việc buổi chiều. Dân đem chiếc ấm ra ban công đổ bã trà vào sọt rác, pha ấm mới mời khách. Hai người vừa uống trà vừa rủ rỉ truyện trò. Ông Bình hồ hởi khoe:

    - Tôi vừa làm việc ở cơ quan Thanh tra của Chính phủ về, kết quả chưa rõ, nhưng triển vọng thì tốt đẹp miễn chê. Tất cả nhờ vào công anh Dân, không biết phải cám ơn thế nào cho xứng, anh ạ!

    - Tôi chỉ dắt bác đi gặp vài người có gì đáng kể công đâu.

    - Không có anh Dân làm sao tôi quen biết vợ nhà báo Quang Huy và anh bạn thân của người quá cố ở tòa soạn đang giữ 2 cái USB quý giá?

    - Trong đó có những thông tin gì lạ, bác kể qua cho tôi nghe được không?

    - Toàn những thông tin động trời mà lâu nay người tỉnh K chúng tôi như lũ mù điếc chẳng biết gì. Thế mới biết nghiệp vụ điều tra của cánh báo chí rất tuyệt vời, trên cơ cả công an.

    - Chưa hẳn thế đâu bác Bình ạ! Nó còn tùy vào cái tâm của người điều tra nữa.

    - Vâng, tôi cũng biết thế, nhưng quả thật hiếm có ai như nhà báo Quang Huy cả về nghiệp vụ điều tra, sự năng nổ và cần mẫn, tinh thần dũng cảm đấu tranh vì công lý.

    - Bác kể sơ qua cho tôi vài vụ việc điển hình xem thử.

    - Chỉ riêng vụ chiếm dụng thuế giá trị gia tăng của các công ty con trong tập đoàn Bil- Kel đóng tại Đà Nẵng, Nha Trang, Phan Thiết trong hai năm qua đã lên tới gần 300 tỷ đồng. Họ xuất quặng Titan cho Trung Quốc một thì làm chứng từ giả khai khống lên mười lần để chiếm dụng thuế giá trị gia tăng, thậm chí không xuất cũng vẫn có chứng từ. Ở K, qua điều tra, thu thập tài liệu thông quan các mặt hàng xuất nhập tại cửa khẩu quốc tế, anh Huy cũng phát hiện ra nhiều vụ trốn thuế hoặc gian lận thương mại của Bil- Kel lên tới vài chục tỷ đồng mỗi năm. Mấy vụ giải phóng mặt bằng ở bản Phìn, bản Chiềng, đường cao tốc, khu phố cũ gần cửa khẩu…thằng Tùng xoăn, tay chân đắc lực của ông Uy đã rất khôn ngoan thuê bọn lưu manh dưới tỉnh Y hoặc bên tỉnh H lên hiện trường, đóng giả thương binh, dân quân xã để đe dọa, cưỡng bức, đánh đập dân đến chết nên khi công an tỉnh K vào cuộc không tìm ra thủ phạm. Vậy mà nhà báo Huy lân la dò hỏi, gỡ dần từng mối ở hai tỉnh bạn, cuối cùng tìm được nhiều nhân chứng để chụp ảnh, ghi âm lời kể và nêu rõ tên tuổi, địa chỉ từng người trong USB, anh Dân ạ! Đặc biệt trong vụ án mạng xảy ra với chị Thơ, hung thủ là thằng Thu, cháu nội của chị ấy đã chết ở bên kia biên giới vì tiêm chích quá liều, ngỡ là vụ án đi vào bế tắc, nhưng anh Huy cũng đã lần ra manh mối dưới thị xã Y rất đáng tin cậy. Trong USB nêu rõ tên, địa chỉ một kẻ được Tùng xoăn thuê nó rủ rê thằng Thu lên K thăm bà nội và nhận tiền của Tùng xoăn cấp cho ăn chơi xả láng hàng tuần, trước khi xảy ra vụ án mạng…

    - Như vậy thì tất cả vụ việc đều chỉ liên quan đến tập đoàn Bil- Kel và các nhân viên dưới quyền của ông Uy chứ bản thân ông Quyền và em trai đều vô can.

    - Đúng vậy. Ông Quyền là bậc cao thủ số rách. Ngay cả các vụ thông thầu hoặc chỉ định thầu ở các công trình xây dựng cơ bản của tỉnh K đều không hề có bất cứ một chữ ký nào của ông ấy liên quan đến vụ việc. Trong vấn đề tài chính cũng vậy, anh Huy đã nhờ bạn bè chiến hữu trong ngành ngân hàng truy tìm, nhưng không thể tìm thấy một tài khoản nào mang tên ông Quyền hoặc vợ ông, trong hệ thống các ngân hàng cả nước. Ở ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh K có duy nhất một tài khoản cá nhân của ông Quyền và một tài khoản của vợ, nhưng số dư không bao giờ vượt quá 50 triệu đồng.

    - Các sếp ở nước mình chắc cũng thế cả. Họ kín võ lắm, bác Bình nhỉ!

    Dân vừa nói vừa nhún vai, lắc đầu tỏ ý thán phục. Anh rót thêm trà mời khách uống cho ngọt giọng, đỡ khát. Hai người ngồi im lặng hồi lâu bỗng ông Bình giả lả vỗ đùi cười to và nói tiếp:

    - Tôi phải quỳ sát đất bái phục nhà báo Quang Huy bởi anh ấy có mắt tinh đời và công phu khám phá ra 3 văn bản có chữ ký của ông Quyền dưới con dấu quốc huy đỏ chói. Trong vòng một năm, ông ấy ra 3 tờ quyết định về mỏ sắt bản Chiềng. Cái thứ nhất vào tháng 2, sau tết âm lịch, giao cho công ty khoáng sản tỉnh K mở khai trường, tổ chức khai thác quặng. Cái thứ hai vào tháng 8, ông quyết định cho công ty dừng khai thác vì hết quặng. Cái thứ ba vào tháng 12, ông quyết định cho Bil- Kel khai thác tận thu quặng, được miễn các loại thuế tài nguyên, thuế môi trường với điều kiện phải hoàn thổ, trả lại đất canh tác cho bà con nông dân người dân tộc Dao.

    - Thế thì quá tốt, đúng chính sách lại hợp lòng dân sao còn thắc mắc nỗi gì, hở bác Bình?

    - Vấn đề lắt léo lại chính ở chỗ anh vừa nói, anh Dân ạ! Mỏ sắt ở bản Chiềng khác hẳn với mỏ bô-xít ở Lâm Đồng. Theo tìm hiểu của anh Huy, bô-xít ở Lâm Đồng là quặng phong hóa bề mặt nên thân quặng trải trên diện rộng, nằm dưới lớp phủ vài mét, cấu trúc hình thấu kính và chỗ quặng dầy nhất cũng chỉ 5 đến 10 mét, chỗ mỏng là 1 mét. Khi khai thác, bóc xong lớp phủ rồi cứ thế mà xúc cho đến cạn kiệt lại chuyển khai trường đi nơi khác. Mỏ sắt ở bản Chiềng là những vỉa quặng cắm sâu vào lòng đất, nằm nghiêng từ 30 đến 50 độ. Công ty khoáng sản tỉnh K chỉ mới khai thác được chút ít quặng ở phần nông bên trên, giới chuyên môn gọi là mũ sắt của vỉa, chất lượng quặng rất xấu. Đến phần ngon nhất thì ông Quyền cho tỉnh dừng lại, nhường Bil- Kel khai thác với danh nghĩa tận thu khoáng sản. Là người có chuyên môn địa chất, tốt nghiệp bằng đỏ ở Nga, ông Quyền thừa biết những điều sơ đẳng trên. Đây chỉ là kịch bản tinh vi do ông tính toán từ đầu. Từ đây, nhà báo Quang Huy tiếp tục điều tra thấy rằng, mỗi tuần Bil- Kel xuất qua biên giới 5 ngàn tấn quặng, một tháng 20 ngàn tấn, một năm là 240 ngàn tấn. Ta hãy thử tưởng tượng xem 4 năm qua họ đã gần như cướp không của tỉnh K xấp xỉ 1 triệu tấn quặng mà ông Quyền vẫn được tiếng là quyết định sáng suốt, hợp lòng dân. Ở tỉnh K chúng tôi, Bil- Kel có 3 mỏ đang khai thác. Kịch bản chắc cũng na ná như vậy. Thật là trò lừa khủng khiếp phải không anh Dân?...

    - Nếu tôi nghe không lầm thì công ty khoáng sản của tỉnh đã dọn cỗ sẵn cho tập đoàn Bil- Kel: Bước một, làm mọi thủ tục với Bộ Tài nguyên và môi trường để được cấp phép. Bước hai, mở khai trường và khai thác hết lớp quặng xấu gọi là mũ sắt. Bước ba, làm báo cáo trình lên lãnh đạo tỉnh xin dừng khai thác vì kém hiệu quả. Sau ba bước này, ông Quyền có lý do để “nghiêm khắc phê bình” công ty của tỉnh và ra quyết định cho Bil- Kel nhẩy vào ăn cỗ dưới hình thức tận thu khoáng sản. Tuyệt! Kịch bản đã rất tinh vi hoàn hảo, còn người điều tra là nhà báo Quang Huy cũng thông minh sắc sảo trên cả tuyệt vời để bóc mẽ kịch bản này.

    - Vụ bản Chiềng chắc chắn phải có sự đồng lõa của cả bộ sậu ở công ty khoáng sản. Tôi đã kiến nghị với Trung ương chọn đây là điểm đột phá bí mật điều tra, giống như ngày xưa chúng tôi đánh trận Quế Sơn- Quảng Nam. Hồi đó cả một hệ thống bố phòng của lữ đoàn thiện chiến bên đối phương do viên Đại tá lừng danh chỉ huy, nhưng đơn vị tôi tập trung binh hỏa lực điểm đúng yếu huyệt để ra đòn là hệ thống tan rã, bắt sống được viên Đại tá ấy ngay tại trận…

    Ông Bình còn sôi nổi dốc bầu tâm sự, kể nhiều chuyện khác ở tỉnh K cho Dân, càng nghe anh càng đau xót với hiện tình của quê hương. Anh nhớ thầy Hạnh, thương và lo cho Dung cùng các con nàng nhiều hơn. Ngực anh đau nhói, cơn tức ngực khó thở lại dội lên những tràng ho rũ rượi, nước mắt giàn giụa. Cũng may vì sau đó ông Bình hé lộ một tin vui để anh bấu víu và nuôi hy vọng. Ông Bình kể:

    - Trung ương vừa điều về tỉnh K một cán bộ ưu tú để ổn định nội bộ trước thềm đại hội. Cả tỉnh, nhất là anh em trong cơ quan “Mặt trận” của tôi đặt rất nhiều niềm tin, hy vọng vào ông Huy Hùng

    - Được bao lâu lâu rồi hở bác Bình?

    - Cũng mới chỉ gần ba tháng nay thôi, nhưng xem ra ông Hùng rất có bản lĩnh

    - Xin bác cho vài nhận xét cá nhân, đánh giá của dư luận về ông ấy.

    - Đánh giá thì hơi sớm, nhưng cá nhân tôi nhận xét ông Huy Hùng là cán bộ trẻ, mới tròn 40 tuổi. Một con người điềm tĩnh, biết cách lắng nghe, hòa đồng với tất cả mọi người. Ông về K hôm trước là hôm sau có mặt ở cơ quan “Mặt trận” tỉnh nói chuyện rất hóm và sâu sắc. Ông cùng tôi xuống thị xã Y thăm hỏi gia đình các con chị Thơ dưới đó. Thắp nén nhang cả cho chị Thơ và thằng cháu nội Thu mất dạy của chị ấy. Ông bảo, thằng Thu chẳng qua cũng là nạn nhân của tệ nghiện hút, hậu quả của giáo dục gia đình và nhà trường đang xuống cấp vậy thôi. Thắp cho nó nén nhang để linh hồn nó siêu thoát. Nghe nói Huy Hùng xuất thân từ cán bộ trong quân đội. Năm 2001, ông được điều động lên Tây Nguyên trong vụ biến loạn của đồng bào dân tộc Ba Na, Ê Đê, lập nhiều thành tích nên Trung ương cho chuyển ngành về làm lãnh đạo ở một tỉnh miền Trung. Chỉ sau vài năm dưới sự lãnh đạo của ông, tỉnh này nổi lên như một điểm sáng kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước, bộ mặt của tỉnh thay đổi nhanh chóng, đời sống nhân dân cũng khá lên, nội bộ lãnh đạo của tỉnh ở nhà đỏ và hệ thống chính trị từ tỉnh xuống cơ sở đều đoàn kết nhất trí tuân phục ông một cách triệt để. Một người có lý lịch trích ngang như thế được điều về làm Phó bí thư khiến tôi và chiến hữu ở các đoàn thể trong “Mặt trận” đều mừng rỡ, háo hức chờ đợi sự đổi thay. Ở nhà đỏ khi ông có mặt tấp nập khách ra vào, nhưng khi ông đi công tác lại vắng như chùa Bà Đanh. Mỗi khi được mời sang dự họp ở nhà xanh, ông đều tế nhị lấy cớ mình mới về còn bỡ ngỡ, mời ông Quyền phát biểu trước, còn khi mình phát biểu thì câu cuối cùng thường là xin anh Quyền bổ sung và cho lời chỉ đạo. Lịch công tác của ông tuần nào cũng kín đặc các chuyến xuống cơ sở và hễ ông Huy Hùng đụng vào đâu thì ở đó bật ra ngay vấn đề cần được giải quyết mau lẹ…

    - Người mới về thường thế cả, chỉ sợ ở lâu sẽ khác.

    - Đành vậy. Hạng tép riu như tôi ở K chỉ còn biết hy vọng và hy vọng…

    Tiễn khách ra về, lòng Dân bộn bề bao suy đoán và cũng như ông Bình, anh nhen lên chút niềm hy vọng vào vị cán bộ trẻ có tên Huy Hùng mới về tỉnh K. Từ lâu Dân đã lờ mờ nhận ra cái tập đoàn Bil- Kel không chỉ là vương quốc riêng của anh em Quyền và Uy trong giới làm ăn tỉnh K. Giờ nghe ông Bình thuật lại những gì lưu trong USB của Quang Huy khiến anh hiểu ra nó còn là tập đoàn của tội ác. Huy đã giữ lời hứa, không hề nhắc đến chuyện cũ của Quyền với Dung, nhưng các dấu hiệu tội ác của ông ta thì nhà báo dũng cảm ấy quyết đào bới đến cùng. Cái chết của Huy, bà Thơ đang dần lộ rõ kẻ chủ mưu không ai khác ngoài ông Quyền. Người này còn ngồi lâu trên ghế quyền lực, tỉnh K sẽ còn loạn. Nay Huy Hùng mới về, nếu được như lời nhận xét của ông Bình thì may cho người dân nhưng không biết có bền? Chẳng hiểu sao, mấy ngày qua tập thiền xong, Dân thường đắm mình vào ảo giác sống kiếp luân sinh của nho sinh Bùi Trụ. Hình ảnh Mạc Đăng Doanh tuổi trẻ tài cao xuất hiện trong mắt Bùi Trụ như một nhân tố mới của lịch sử Đại Việt giữa thời tao loạn. Cuộc nói chuyện giữa chàng với Đăng Doanh ở sân chùa Tiên Thiên dưới trăng thu vằng vặc đã để lại trong lòng chàng ấn tượng không thể phai mờ. Giờ đây nghe ông Bình kể chuyện về vị cán bộ trẻ mới về tỉnh K, bỗng Hiếu Dân liên tưởng đến cuộc đàm đạo ấy…

    Mùa thu năm Mậu Dần (1518), vua Lê Chiêu Tông nghe theo lời khuyên của nhóm sĩ phu do Bùi Xương Trạch khởi sướng đã xuống chiếu sai người đi Hải Dương gọi cha con Mạc Đăng Dung về kinh giúp vua dẹp loạn đám quỷ quan tranh bá. Trên đường theo cha về kinh, khi đoàn quân người ngựa qua sông ở bến Thái Cực, chuẩn bị vào thành theo cửa Bắc Thần thì trời đã xẩm tối. Chàng bàn với cha nên đóng quân ở bến sông, chờ sáng hôm sau sáng rõ mặt người mới vào thành ra mắt vua đề phòng mọi bất trắc và tránh được những lời dị nghị của kẻ xấu đơm điều đặt chuyện thị phi. Được cha chuẩn y, chàng liền hạ lệnh cho các tướng dựng trại nghỉ ngơi ăn cơm tối. Nhớ lời hẹn ước hai năm trước với bạn, chàng nảy ra ý muốn đến chùa Tiên Thiên thăm Bùi Trụ và Lệ Thanh, xem hai người có còn ở đó. Biết lệ nhà chùa không ăn cơm tối, chỉ ăn bữa sáng rất sớm và bữa trưa vào lúc quá Ngọ sang Mùi, chàng sai người dọn nhanh cơm tối để mình và mấy người tùy tùng tâm phúc ăn vội còn xuất trại có việc quân cần gấp. Cơm nước xong xuôi, Đăng Doanh cùng đám tùy tùng nai nịt gọn gàng, gươm dắt bên hông, cưỡi ngựa phi nhanh theo bờ đê Nghi Tàm, rẽ về hướng chùa Tiên Thiên bên mép hồ Tây ở làng Trích Sài. Hai năm xa kinh thành theo cha chinh chiến ở lộ Hải Dương với đám quân ô hợp, thuộc hạ của Trần Cao chàng đánh đâu thắng đó. Thâm ý của cha muốn con trai mình rèn luyện, trưởng thành trong trận mạc chàng đã hiểu. Giờ đây quay lại kinh thành để tham chính cũng nằm trong dự tính lúc ra đi của cha, chàng chỉ bồi hồi xao xuyến vì nó đến quá nhanh. Đăng Doanh kiêu hãnh nhìn ra phía hồ Tây trong ánh hoàng hôn đang mờ dần sắp tắt để sớm mai đây mặt trời sẽ ló rạng đón chào đoàn dũng sĩ của chàng tiến vào cửa Bắc Thần khởi đầu cho sự nghiệp mới. Tiếng chuông chùa Trấn Vũ lặng lẽ thu không. Đàn chim sâm cầm vỗ cánh bay là trên sóng nước. Gió thu mơn man thoa nhẹ trên gương mặt chàng nhuốm màu sương gió hai năm chinh chiến. Ở tuổi hai tám căng trào sức xuân, chàng trở về ôm mộng lớn lao cùng cha thay trời hành đạo, dẹp hết lũ quỷ vương dâm loạn và đám quỷ quan hung dữ tranh quyền trên xương máu dân lành. Bao năm qua dân nước Đại Việt rên xiết trong cơn binh lửa vô nghĩa, không nhà nào không có tang tóc đau thương. Lúc ra đi, lực lượng họ Mạc còn yếu, thế cục trong triều vua Chiêu Tông chưa ngã ngũ nên ta chỉ dám lấp lửng nói lời bóng gió xa xôi với Bùi Trụ mọi dự định ngày trở về. Giờ lực đã mạnh, chí đã mài sắc nên chẳng cần kiêng rè, lát nữa ta sẽ dốc hết bầu tâm sự với người bạn chí cốt thâm giao. Không biết huynh ấy với Lệ Thanh ra sao rồi?... Bất giác Đăng Doanh thấy mủi lòng thương xót người con gái tài sắc vẹn toàn mà bất hạnh. Chàng cũng cảm thông cho nghịch cảnh trớ trêu của Bùi Trụ bao năm chứng kiến cảnh người tình của mình bị làm nô lệ tình dục cho hai ông vua quỷ háo sắc, loạn luân. Liệu trong hoàn cảnh ấy, tiên sinh Bùi Xương Trạch có chấp nhận cho hai người đoàn tụ bên nhau? Liệu sau 10 năm nhụy rữa hoa tàn, tấm thân bị dày vò ô nhục nàng Lệ Thanh có chịu nối lại tình xưa? Trong cái đêm năm Bính Tý (1516) lửa cháy ngút trời, máu loang mặt đất nơi hoàng cung ấy, ta đã cử người tận lực giúp Bùi Trụ tìm gặp và giải thoát cho Lệ Thanh, nhưng biết đâu gặp lại nhau rồi họ càng thêm khó xử!...

    Đăng Doanh dừng ngựa trước cửa chùa Tiên Thiên, nhác thấy xa xa Bùi Trụ và Lệ Thanh thong dong bước đi bên bờ hứng gió, ngắm cảnh hồ Tây đang trở về chùa. Lòng chàng rưng rưng xúc động. Đăng Doanh xuống ngựa tiến về phía hai người, giang rộng vòng tay. Bùi Trụ sững sờ nhìn bạn cũ trở về trong bộ giáp trụ oai phong lẫm liệt. Đôi bạn nhào vào nhau mừng tủi, tròng mắt đỏ hoe mãi không nói nên lời. Hồi lâu Bùi Trụ nghẹn ngào nói:

    - Gặp lại nhau thấy công tử Đăng Doanh giờ đã thành trang tuấn kiệt thỏa sức tung hoành, ta cũng hởi lòng mát dạ. Lệ Thanh vẫn thường nhắc đến công tử, nghĩ mình chịu ơn sâu mà chưa có dịp đáp trả.

    - Hai người giờ có ổn không? Sức khỏe chị Lệ Thanh thế nào?

    - Ổn thì chưa, nhưng ta ngập tràn hạnh phúc. Gia phụ nhất quyết phản đối nên ta mỗi ngày chỉ được lên chùa gặp nàng chốc lát trong buổi chiều, nhưng thế cũng đủ để ta và nàng hàn huyên mọi nỗi, chăm sóc cho nhau. Dù Lệ Thanh vẫn một lòng cự tuyệt, khuyên ta nghe lời gia phụ, tìm người hiền thục nâng khăn sửa túi, nhưng cả đời này ta chỉ yêu có mình nàng thôi.

    - Huynh cứ an tâm, chờ có dịp thuận lợi cả hai cha con đệ sẽ vun vào, động viên thầy Xương Trạch bỏ qua mọi điều mặc cảm hay lời đàm tiếu của người đời để chấp nhận chị Lệ Thanh về làm dâu trong nhà.

    - Mải vui gặp gỡ ta quên mất, công tử đã dùng bữa chưa?  

    - Đệ biết lệ nhà chùa nên đã ăn no rồi mới đi. Thật lòng dọc đường đệ không dám tin sẽ gặp huynh ở chùa, chỉ vì muốn thỏa lòng khao khát gặp gỡ mà liều đi thôi.

    Lệ Thanh thấy trời đã tối, nắm tay Bùi Trụ giục đưa đưa Đăng Doanh vào chùa bái kiến ni sư và uống trà. Nàng xin phép đi trước, còn hai chàng quàng vai nhau vừa đi vừa rủ rỉ chuyện trò. Vào đến thềm, Đăng Doanh lễ phép chắp tay cung thỉnh và vấn an ni sư. Bà gặp lại chàng mặc giáp trụ nom cứng cỏi, oai phong như một vị tướng quân trong triều chợt sững người đứng ngây một lát mới nhận ra người quen cũ, rối rít khen ngợi, nhắc Lệ Thanh dọn nơi tiếp khách. Đêm ấy, trong sân chùa Tiên Thiên, bên gốc cây ngâu già, hai chàng say sưa đàm đạo đến khuya. Trăng thu lai láng, sánh vàng như mật ong. Gió hồ thu thổi lộng, như chắp cánh cho lý tưởng hai chàng trai nước Việt. Bùi Trụ nói:

    - Hai năm qua nghe tiếng công tử phò tá tướng quân Mạc Đăng Dung tung hoành ở lộ Hải Dương đánh dẹp tàn quân của giặc Trần Cao, ta vẫn đinh ninh sẽ có ngày này.

    - Hôm chia tay đệ không dám hé lộ quân cơ chứ mọi việc diễn ra đều đã nằm trong toan tính từ đầu hết rồi.

    - Sắp tới lệnh đường và công tử sẽ làm gì?

    - Trước mắt cha con đệ sẽ thân chinh cầm quân dẹp tan bọn phản loạn Trịnh Tuy, Nguyễn Kính và đám tàn binh của Trần Cao. Gã lưu manh buôn thần bán thánh này tuy đã cải dạng làm sư trốn vào núi biệt tích, nhưng thằng con là Trần Cung vẫn ngoan cố truyền đi câu sấm “Đông phương hữu thiên tử khí” để mê hoặc dân chúng, tiếp tục nổi loạn ở mạn Đông Triều.

    - Trịnh Tuy, Nguyễn Kính đều không phải hạng vừa, quân đông tướng giỏi, công tử liệu có chắc thắng?

    - Thật ra trước lúc chia tay huynh, đệ đã nhiều năm âm thầm bí mật về quê Cổ Trai gây dựng lực lượng được hơn 5 ngàn dũng sĩ hừng hực khí thế sẵn sàng xả thân vì đại nghĩa độ dân cứu khổ. Từ ngày mang quân đánh chiếm lộ Hải Dương, lực lượng ấy đã lớn mạnh thành gần hai vạn tinh binh, tướng giỏi. Đám loạn quân phi nghĩa kia nào có đáng kể gì. Dẹp loạn xong rồi ta sẽ làm gì tiếp theo mới là câu hỏi lớn đang đêm ngày dày vò lòng đệ, huynh có hiểu và chia sẻ với đệ không?

    - Vậy có nghĩa là…?

    - Chẳng cần úp mở nữa. Cha con đệ muốn thay trời hành đạo. Nhà Lê đã suy đồi mục nát đến thối rữa. Cái thây ma ấy làm sao vực dậy được nữa. Bao năm đất nước tan hoang, dân tình thống khổ không vì giặc ngoại xâm là vì vua quan triều đình ngày càng đốn mạt. Thử hỏi, người quân tử cam lòng ngồi trơ mắt ếch hay sao? Mạnh tử nói “dân trọng quân khinh”, hạnh phúc của dân nặng gấp trăm ngàn lần ngai vàng bệ ngọc của vua, huynh ạ!

    - Công tử dự tính sẽ làm gì để phục hưng đất nước?

    - Phải thay đổi triều đại, có thực quyền trong tay mới có thể thi triển kế sách canh tân đất nước, không còn cách nào khác đâu. Điều này đệ chỉ nói riêng cho huynh biết, xin đừng sớm lộ ra với thầy Bùi Xương Trạch vội. Sự việc lúc nào đến sẽ đến, có thể nay mai, cũng có thể dăm năm hay mười năm, lúc ấy những bậc túc nho như thầy sẽ hiểu không thể ngu trung theo giáo lý hủ lậu của đạo Nho được nữa, tất biết phải tùy nghi hành xử, huynh ạ! Chúng mình là những người trẻ thì khác, huống chi đệ rất muốn huynh cùng đệ chung tay gánh vác việc nước sau này.

    - Vậy theo ý công tử, việc canh tân đất nước sẽ chọn khâu nào khởi phát?

    - Làm cho dân no ấm, được sống yên lành khỏi nạn đao binh là việc trước tiên. Muốn vậy phải thay đổi tận gốc thể chế của triều đình, diệt hết bọn tham nhũng mới có thể khuyến nông, khuyến công, khuyến thương có kết quả tốt đẹp. Lâu nay đồng ruộng bỏ hoang, đê điều không đắp, kênh mương nội đồng chẳng được khơi thông thì dân no làm sao được. Muốn mở mang các nghề thủ công đặc sắc tất triều đình phải hỗ trợ thương nhân đóng thuyền lớn chở hàng nặng và đi xa, buôn bán trong nội địa và giao thương với các lân quốc, chứ vẫn kẽo kẹt gánh hàng ra các chợ quê sẽ không thể khá lên được đâu, huynh ạ!  Kế sách này xưa tướng quân Trần Nguyên Hãn đã từng khởi sướng, rất tiếc đã bị vua Lê Thái Tổ dẹp đi vì nghi ông có ý phản loạn, ngầm đóng thuyền chiến cho mình ở bến Kim Xuyên trên dòng Lô Giang…

    - Những ý tưởng mới lạ của công tử khiến lòng ta phấn chấn, tin tưởng. Tuy vậy, theo thiển nghĩ của ta về lâu dài phải xóa đi làm lại từ đầu nền học và chế độ thi cử nước nhà. Nên chăng ta bãi bỏ sự độc tôn của đạo Nho, coi nó làm tư tưởng thống soái thời vua Lê Thánh Tông, trở lại với tam giáo đồng nguyên và quy chế thi cả tam giáo Nho- Phật- Lão của các vua Trần ngày xưa để kén chọn nhân tài?

    - Việc này đệ đã nghĩ đến nhưng không thể nóng vội. Trước mắt triều đình mới của họ Mạc cần ngay lập tức nhiều nhân tài trong giới sĩ phu trẻ, có chung hoài bão với đệ và huynh để cùng chúng ta đảm đương việc nước. Loại này có thể chọn ở hai nguồn: một là các sĩ tử từng  đỗ cao, có thực tài từ khoa thi cuối cùng thời vua Thánh Tông năm Bính Dần (1496) đến khoa thi gần đây nhất thời vua Tương Dực năm Giáp Tuất (1514); hai là mở ngay các khoa thi mới tại kinh đô và vẫn giữ nguyên các định chế khoa cử thời vua Lê Thánh Tông. Về lâu dài, đệ cũng tán đồng với huynh trong việc cách tân nền học và chế độ khoa cử như huynh vừa nói, nhưng phải có sự chuẩn bị kỹ càng. Đối với đạo Nho, ta khôi phục lại những điều hay, nét đẹp thời Tiên Tần ở cả hai nhánh đức trị của Khổng- Mạnh và pháp trị của Tuân Tử, Hàn Phi Tử. Đối với đạo Phật, ta cho mời các vị cao tăng trong Thiền phái Trúc Lâm về lại kinh thành trụ trì chùa lớn ở kinh thành giáo hóa chúng sinh và cho truy tìm các mộc bản ở chùa Vĩnh Nghiêm trên lộ Bắc Giang để in thành sách phân phát đi các chùa. Đối với đạo Lão, ta cho lưu hành rộng rãi trước tác “Đạo đức kinh” của Lão Tử  để các nho sinh, sĩ tử làm quen và hiểu dần điều căn cốt và khó nhất là tinh thần bản thể luận trong trước tác bất hủ đó. Làm tốt mấy việc trên thì xóa bỏ sự thống soái của đạo Nho, trở lại với tư tưởng tam giáo đồng nguyên và đem nội dung tam giáo vào khoa trường lúc thi cử sẽ dễ như trở bàn tay, còn ngay lúc này chưa thể đâu, huynh ạ!...

    (còn tiếp)

    Nguồn: Quỷ Vương. Triệu thuyết lịch sử của Vũ Ngọc Tiến. NXB Hội Nhà văn, 2016.

    Tác giả gửi www.trieuxuan.info

    Mục lục: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

    Bài viết liên quan

  • Nam Đế Vạn Xuân
    • Nam Đế Vạn Xuân

      Với hơn 500 trang, 15 hồi gay cấn, sinh động trong từng câu thoại của các nhân vật lịch sử, Tiểu thuyết Lịch sử Nam Đế Vạn Xuân nằm trong bộ Tiểu thuyết dài tập Vương triều tiền Lý của Nhà văn Phùng Văn Khai. Nam Đế Vạn Xuân tái hiện một cách sinh động lịch sử nước nhà xoay quanh triều đại của nhà nước Vạn Xuân (544-602) giúp chúng ta hiểu và tự hào hơn về lịch sử đánh giặc hào hùng của dân tộc. Với bộ nhân vật lịch sử đồ sộ của cả ta lẫn địch như: Lý Nam Đế, Tinh Thiều, Phạm Tu, Triệu Túc, Triệu Quang Phục, Phùng Thanh Hòa… hay Lương Vũ Đế, Vũ lâm hầu Tiêu Tư, Dương Phiêu, Lý Tắc… tạo nên rất nhiều tình tiết móc ngoặc, những cuộc đấu trí gay cấn hay những lời thoại sinh động của từng nhân vật. Nam Đế Vạn Xuân như một con tàu thời gian đưa ta ngược trở về từng quãng của lịch sử cách đây gần 1500 năm từ khi Lý Bí tu tập tại chùa Cổ Pháp đến thời điểm làm Giám quân ở Đức Châu và cuối cùng là đuổi giặc Lương lên ngôi tại điện Vạn Thọ. Đó cũng là lần đầu tiên Việt Nam có hoàng đế và niên hiệu Thiên Đức là niên hiệu riêng đầu tiên để chứng tỏ nước ta đã giành lại độc lập từ tay Trung Quốc.

    Tìm kiếm

    Lượt truy cập

    • Tổng truy cập57,743,618

    Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

       

      Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

      *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

    Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

      WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

      Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

      The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

      Enjoy life, enjoy Arita experience!