Tìm kiếm

Lượt truy cập

  • Tổng truy cập57,743,599

Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

     

    Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

    *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

    WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

    Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

    The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

    Enjoy life, enjoy Arita experience!

Tiểu thuyết

Quỷ Vương

Vũ Ngọc Tiến

  • Thứ năm, 13:02 Ngày 30/07/2020
  • Quỷ Vương

    6. Quyền thần Trịnh Duy Sản

    Dân nhận được tin nhắn của Quang Huy hẹn gặp ở quán café Chiều Tím, anh buông bút, dứt mạch viết đi ngay vì hình như phóng viên này có chuyện cần nói ở tỉnh K. Nếu là vụ bà Thơ hay tập đoàn Bil- Kel mình sẽ im lặng nghe để biết chứ không tham góp thêm gì. Tình hình ở K lúc này khá phức tạp, càng gần đến đại hội sẽ càng phức tạp hơn. Ông Bình, cấp phó của bà Thơ còn trẻ, được bà ấy trực tiếp bồi dưỡng nên làm căng lắm, đòi tiếp tục điều tra đến cùng nguyên nhân mất cặp tài liệu trong ngày xảy ra án mạng. Phóng viên Huy quen biết ông Bình chắc có nhiều tư liệu về Quyền và tập đoàn của Uy nên muốn hỏi mình chuyện gì đây? Nếu chỉ để tìm hiểu đời tư của ông Quyền tất sẽ làm tổn thương đến thầy Hạnh và Thùy Dung. Vụ việc ở quán café Chiều Tím năm xưa chắc cậu ấy đã nghe bà chủ quán kể lại. Không phải ngẫu nhiên Huy chọn nơi đó làm điểm hẹn. Mình thân với Huy cũng đã lâu. Cậu ấy là cây bút có tâm có tầm, không như mấy người viết báo lá cải chỉ thích soi mói đời tư các “Sao” trong giới nghệ thuật hay bóng đá để câu khách. Linh tính anh mách bảo, người như Huy muốn tìm hiểu lai lịch, đời tư ông Quyền chắc có chuyện lớn, tốt ít xấu nhiều… Dân vừa dựng xe đã thấy bà chủ quán ra tận cửa đon đả chào hỏi. Anh bước vào quán thấy Huy đang ngồi ở chiếc bàn kê gần cửa sổ nhìn ra hoa viên có giàn phong lan nở nhiều loại hoa quý, khoe sắc trong nắng thu vàng nhạt. Huy đang chăm chú xem báo, mặc sơ mi kẻ ka rô màu nhạt, ngoài khoác hờ chiếc gile nhiều túi có nắp hoặc khóa, thứ trang phục ưa dùng của cánh phóng viên. Anh có vóc người to cao, mắt sáng, mũi cao nổi trên gương mặt chữ điền với vầng trán rộng và sáng. Huy đứng dậy chào, bàn tay dày và ấm nóng nắm chặt tay người đối diện cho Dân một cảm giác gần gũi, tin tưởng. Huy nheo mắt cười hỏi nhẹ:

    - Anh vẫn khỏe, uống gì?

    - Cũng café đen đá như Huy thôi.

    - Anh có vẻ là khách quen của bà chủ?

    - Ngày xưa thì thế, giờ chỉ thi thoảng ghé qua… Nhưng sao Huy lại chọn quán này, mọi khi ta vẫn hẹn nhau ở café Hói phố Hàng Gai cơ?

    - Tôi muốn anh đổi chỗ ra đây uống khí trời, ngắm hoa chứ ngồi mãi trong căn hộ chung cư ổ chuột, nhà nước xây từ đời tám hoánh như anh mà đọc, viết cả đêm lẫn ngày không ốm ho lao mới lạ. 

    Bà chủ quán nói xen:

    - Có cô Hương khách quen ở đây, người đẹp nền nã, thích anh Dân lắm mà anh ấy cứ làm lơ, rõ phí.

    - Duyệt đi ông anh, cho thoát cảnh cơm niêu nước lọ- Huy cười hưởng ứng.

    - Cô ấy mới bỏ chồng, có một con, chỉ là bạn cũ thời sinh viên. Thôi ta vào chuyện chính đi kẻo muộn, đến giờ tan tầm kẹt xe thì khốn.

    - Tháng trước báo của tôi đăng bài tường thuật buổi nói chuyện của ông Quyền ở mấy trường Cao đẳng của tỉnh K. Cô phóng viên trẻ viết bài này khá hay. Giờ báo lại đăng tiếp bài bình luận của cô ấy về buổi ông Quyền diễn thuyết tại Viện nghiên cứu giáo dục có nhiều ý lạ. Tôi muốn ông cho vài lời nhận xét.

    - Theo mình, một quan chức cấp tỉnh mà quan tâm đến giáo dục, nhất là môn Sử là điều đáng trân trọng, Huy ạ!

    - Có điều hơi lạ vì cả hai lần diễn thuyết ông ấy đều có ý khen ngợi và cổ động cho công trình nghiên cứu của anh.

    - Tôi cũng thấy ngỡ ngàng cảm kích, đã gọi điện cho bà xã ông ấy, nhờ chuyển lời cảm ơn chân thành của tôi đến Quyền. Phải thừa nhận diễn giả cũng là người thông minh, quyền biến. Ông ấy đề cập đến thủy lợi thời Lê qua quýt vài câu rồi tỏ ra cao thượng giới thiệu rất kêu về công trình nghiên cứu của tôi. Nhưng nếu nhà báo đọc kỹ sẽ thấy bài diễn văn của ông Quyền còn ngụ ý khoe kiến thức thủy lợi các triều từ Tiền Lê đến Đinh, Lý, Trần là của mình. Thật ra trong đề tài “Lịch sử 100 năm thời Lê sơ”, khi đề cập đến chính sách khuyến nông thời Lê Thái Tổ nói về thủy lợi, tôi đã dành nhiều trang hệ thống lại công tác thủy lợi từ triều Trần trở về trước để các em học sinh, sinh viên hiểu được công sức to lớn của ông cha xưa trong quá trình kiến quốc. Sau đó tôi mới đi vào phân tích kỹ công tác thủy lợi của thời Lê Thái Tổ có nhiều điểm hay, tiến bộ so với thời trước.

    - Chơi với nhau lâu, chắc anh Dân đã biết, tôi cũng mê đọc sử. Đề tài của anh khiến tôi tò mò muốn đọc quá! Nó viết về thời Lê sơ có những gì mới lạ không?

    - Thời Lê, nói chính xác hơn là “Lịch sử 100 năm thời Lê sơ”. Thầy giáo Hạnh, người thầy tôi nhất mực kính trọng từ hồi học phổ thông thường dạy tôi rằng, nhà Lê trị vì 360 năm, dài nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến nước ta, nhưng cũng phức tạp nhất, để lại nhiều bài học đắt giá. Triều đại nào cũng có cái hay cái dở, lúc thịnh lúc suy, song với nhà Lý, nhà Trần có nhiều bài học theo hướng tích cực; còn nhà Lê lại có nhiều bài học theo hướng tiêu cực.

    - Vậy anh nói sơ cho nghe những bài học lịch sử thời Lê đi, tôi bắt đầu mê đề tài của anh rồi đấy, anh Dân ạ!

    - Được thôi… Tôi chỉ nói cho nhà báo nghe các bài học tiêu cực, còn các bài học tích cực có đầy trong sách giáo khoa, sách nghiên cứu, tham khảo. Người Việt mình có thói tự sướng và phò chính thống nên các nhà viết sử chỉ thích tô hồng. Xét trong 100 năm thời Lê sơ, nhà Lê chỉ lóe sáng, thịnh trị được 37 năm dưới triều vua Lê Thánh Tông, còn lại hơn 30 năm đầu và 30 năm cuối đều rất rối ren

    - Và những rối ren đó cho ta những bài học lịch sử, phải không anh?

    - Trước hết nói về 33 năm đầu thời Lê sơ ta thấy, thời gian ngắn ngủi mà trải ba đời vua Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông; thêm một ông Nghi Dân năm 1459 trèo tường vào cung giết em cướp ngôi, làm vua được nửa năm thì bị các đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt giết chết đủ biết rối ren đến chừng nào. Lê Lợi đánh thắng giặc Minh lên ngôi vua lúc đã gần 50 tuổi, trong người ủ bệnh từ thời kháng chiến 10 năm gian khổ. Ông tự biết mình không sống được lâu, luôn bị ám ảnh Thái tử Nguyên Long còn nhỏ, mình chết rồi sẽ có kẻ cướp ngôi của con trai. Lê Lợi không tin ai cả, nghi ngờ hết thẩy các đại công thần cùng mình đồng cam cộng khổ trong cuộc kháng chiến. Ông chia họ thành hai loại: công thần gốc trí thức tinh hoa ở kinh đô cũ như Trần Nguyên Hãn, Phạm văn Xảo, Lưu Nhân Chú… nguy hiểm hơn nên tranh thủ lúc còn sống ông giết trước; với công thần gốc Thanh- Nghệ là loại võ biền như Lê Sát, Lê Ngân thì trước lúc lâm chung (1433) ông ghé tai truyền mật chỉ, bày sẵn mưu kế cho cháu ruột mình là Lê Khôi cùng cháu con bà chị là Đinh Liệt nên 4 năm sau (1437) hai ông này cũng bị giết nốt. Mỉa mai thay chính hai ông Lê Sát, Lê Ngân trước đó cũng hớn hở đồng tình hợp sức với Lê Lợi diệt trừ nhóm sĩ phu có học kia. Không ai có thể phủ nhận Lê Lợi là vị anh hùng dân tộc chói sáng trong lịch sử. Tuy nhiên xét riêng về điểm này, Lê Lợi cũng ghê gớm, hiểm ác còn hơn cả Chu Nguyên Chương sáng lập ra nhà Minh. Hệ lụy của nó làm đất nước rối ren đến tận năm 1459 mới chấm dứt bằng cái chết của Lê Nghi Dân. Thiết nghĩ, bài học đau đớn trong hơn 30 đầu thời Lê sơ là khi chính quyền trong tay những người mỏng học thì họ đều sợ nhất những người có học, lắm chữ, xem họ như cái gai trong mắt cần nhổ sớm.

    - Thế còn bài học lịch sử 30 năm cuối thời Lê sơ?

    - Giai đoạn lịch sử này tôi đang viết dở đến đời vua Tương Dực, nhưng bài học lịch sử thì đã rõ. Một nền hòa bình lâu dài là phúc lớn của dân tộc, nhưng nếu đi theo nó là sự xuống cấp vô độ của giáo dục thì xã hội sẽ nhan nhản bọn người lòng lang dạ sói lên nắm quyền, quỷ sống lẫn với người, đẩy đất nước đến bờ vực suy thoái, rối ren hậu quả khôn lường… 

    Hai người chuyện trò, tranh luận sôi nổi trong quán café Chiều Tím. Bóng chiều đã lạt. Quán thưa vắng dần. Quang Huy lờ mờ nhận ra Hiếu Dân đang mang hết tâm huyết dùng đề tài nghiên cứu của mình làm khâu đột phá trong cải cách giáo dục, đổi mới chương trình và sách giáo khoa bắt đầu từ môn Sử. Cứ theo cách nói, thái độ thẳng thừng của Dân, hình như anh hy vọng sách giáo khoa môn Sử phải được xóa đi làm lại từ đầu. Ý tưởng này không tồi. Theo lời kể của Dân, đó cũng là tâm huyết của thầy giáo Hạnh cả đời dạy sử mà Huy đã đôi lần gặp qua ở chùa Sùng Miên trên núi Hoàng Liên. Ông Quyền là người nhanh nhạy, nắm bắt được ý tưởng này đã khéo đưa vào hai bài diễn thuyết khá tinh tế, giàu sức thuyết phục. Là người lợi khẩu, ông nói lưu loát, ngữ điệu uyển chuyển theo mạch cảm xúc khiến người nghe không thể ngờ đó là ý tưởng ăn cóp của Dân. Không ít người khen ông Quyền là ngôi sao chính trị đang lên cũng là điều dễ hiểu. Con người này quả không đơn giản. Tham vọng quyền lực của ông ta có lẽ không dừng ở tỉnh K nhỏ bé. Chia tay, anh giúp Dân dắt xe ra tận mép đường, nắm chặt tay nói giọng ấm trầm đầy cảm thông chia sẻ:

    - Anh Dân này, tình hình tỉnh K lúc này rối ren phức tạp lắm. Tôi đang nắm trong tay nhiều tài liệu và những lá đơn khiếu kiện của công dân gửi đến tòa soạn. Có những lá đơn nêu không ít chuyện chẳng hay về ông Quyền nên tôi mới phải mất công điều tra. Muốn hiểu kỹ một con người, tôi thường hay liên tưởng đến ông kiến trúc sư cầm bút vẽ, bổ tòa nhà theo nhiều khía ngắm nhìn từng lát cắt để tìm ra nét ưu, điểm nhược. Việc tôi lân la đến quán café Chiều Tím, hỏi chuyện bà chủ hay chị Hương mong anh đừng để bụng. Đó chỉ là thao tác nghề nghiệp. Quan hệ giữa anh và vợ chồng ông Quyền tôi đã rõ, nhưng chỉ tham khảo, không để lộ ra cho đồng nghiệp hoặc nói với cơ quan điều tra. Tôi hứa khi công khai mọi chuyện về ông Quyền trên mặt báo sẽ không có một câu chữ nào gây tổn thương đến Thùy Dung, thầy Hạnh. Anh cứ yên tâm.

    - Được như vậy xin cám ơn anh trước, Huy ạ!

    - Chị Hương khi gặp tôi cũng có mong muốn như anh. Chị ấy đẹp, thông minh và tế nhị lắm. Anh dấn thêm đi, đừng vì cuộc tình ngang trái mà khép chặt cửa lòng mãi thế…

    Dân phóng xe đi rưng rưng cảm động. Nỗi lo canh cánh bên lòng lúc đi được giải thoát. Anh tin Huy sẽ thực hiện lời hứa, nhưng cũng lo nếu những điều anh phóng viên này nghi ngờ Quyền và công ty của Uy có liên quan đến vụ án mạng xảy ra với bà Thơ là đúng thì Dung sẽ ra sao? Em đã quá buồn khổ mà mắc bệnh viêm tuyến lệ, nay nếu phải chịu tiếng oan làm vợ hay chị dâu kẻ sát nhân máu lạnh sẽ không chịu nổi khổ đau, nhục nhã. Các cháu Bil và Kel tương lai rồi sẽ ra sao? Dân lái xe trong tâm thế vô định. Tay lái anh vô tình lượn theo đường Văn Cao, đâm thẳng ra hồ Tây, rẽ về hướng làng Trích Sài, nơi có chùa Tiên Thiên cổ kính. Gió hồ thổi lộng ru hồn anh vào ảo giác, sống kiếp nho sinh Bùi Trụ đêm ngày khắc khoải nôn nao nhớ nàng Lệ Thanh. Anh xuống xe, ngồi vào chiếc ghế đá ven hồ và hình ảnh kiếp xưa hiện lên như một cuốn phim cổ trang truyền hình nhiều tập…

    Bùi Trụ đi tìm Đăng Doanh để hỏi thăm về vụ vua Tương Dực thiết triều hạch tội Trịnh Duy Sản khi quân phạm thượng, sai lính ngự lâm nọc ra đánh 30 trượng trước sân rồng ở điện Kính Thiên. Các quan trong triều xì xầm bảo nhau, ông vua lợn này hôm nay uống thứ thuốc liều hay sao mà dám cả gan vuốt râu cọp, đụng đến đại thần quyền nghiêng cả nước. Cha chàng đang bệnh không dự buổi chầu nên sai con đi dò hỏi ngọn ngành. Gặp nhau, Đăng Doanh hồn nhiên kể lại đầu đuôi câu chuyện cho bạn nghe: Hoàng hậu Khâm Đức thấy vua mải mê rượu chè, hú hý với các phi tần mà bỏ bê việc triều chính nên lo lắng không yên, tìm cách khuyên giải chồng. Hôm đó vua vừa tỉnh rượu, nhờ có Lệ Thanh bên cạnh nói đỡ, vua chịu nghe lời hoàng hậu chuẩn bị thiết triều. Hoàng hậu cả mừng, liền đưa mắt cho Lệ Thanh cùng mình dìu vua đi tắt vườn thượng uyển trong hậu cung để lên điện Kính Thiên cho gần. Bỗng Trịnh Duy Sản xông vào quát lớn:

    - Hoàng thượng sao không thiết triều?

    - Có việc chi gấp thế hở Mỹ Huệ hầu?- Vua hỏi lại.

    - Vũ Như Tô vừa bẩm với thần, thiếu ngân lượng nên gỗ đá không đủ, thợ không có cơm ăn, làm sao hoàn thành cung điện một trăm nóc và Cửu trùng đài cho hoàng thượng trong năm nay được.

    Hoàng hậu Khâm Đức thấy vậy nghiêm giọng nói:

    - Ông là trọng thần đương triều mà không hiểu phép tắc, dám xông vào nơi hậu cung là điều cấm kỵ, lại nói năng thô lỗ, không thưa bẩm đúng đạo quân thần thì làm sao bảo được các quan đây?

    Duy Sản trừng mắt quát lại:

    - Hoàng hậu chẳng qua chỉ là cô gái quê mùa Nguyễn Thị Đạo ở phủ Thượng Hồng do ta cùng các đại thần dựng lên biết gì mà phách lối.

    - Im ngay cả đi. Các ngươi không coi trẫm ra gì nữa hử. Mỹ Huệ hầu ra mau, ra ngay!...

    Vua Tương Dực quát đuổi Trịnh Duy Sản ra ngoài, sượng sùng nhìn sang Hoàng hậu. Nàng Lệ Thanh lúc đó mới dám lên tiếng, kể lại cho vua và hoàng hậu nghe ngoài cung đồn đại rằng, ông này lợi dụng việc xây cất cung điện và Cửu trùng đài đã cài người nhà của mình thông đồng với quan giữ kho bên Bộ Công bòn rút ngân lượng và gỗ quý. Duy Sản tự tiện xông vào tận hậu cung là muốn ép vua cho phép chi thêm nhiều ngân lượng nữa cho thỏa lòng tham như cái thùng không đáy. Hoàng hậu nghe xong bàn với vua phải xử nghiêm việc này vừa giữ thể diện cho vua vừa răn đe Duy Sản và các quan. Nào ngờ việc Trịnh Duy Sản bị phạt đánh 30 trượng nhanh chóng lan đi khắp kinh thành, dân chúng đàm tiếu khiến ông ta cảm thấy vô cùng nhục nhã. Đăng Doanh từ tốn thuật lại cho Bùi Trụ toàn bộ câu chuyện và khuyên:

    - Đệ ngờ rằng triều đình sắp có biến loạn. Huynh nghe chuyện để biết, đừng bình phẩm gì sẽ không có lợi, tai vay vạ gió như bỡn. 

    - Chẳng lẽ chỉ vì bị vua phạt vài chục trượng mà Trịnh Duy Sản dám làm loạn hay sao?

    - Huynh nên biết từ ngày lập công to được vua phong tước Mỹ Huệ hầu, Duy Sản dương dương tự đắc, khinh thị các quan nhờn cả với vua. Nay bị vua nghe lời Hoàng hậu làm nhục trước mặt bá quan văn võ ngay giữa sân rồng, ông ấy làm sao chịu nổi mối hận này.

    - Thật chẳng ra làm sao, kỷ cương phép nước còn không?

    - Có đâu mà mất với còn hở huynh. Nước nhà suy thoái, người cũng đổ đốn lâu rồi.

    - Công tử thấy Duy Sản là người thế nào?

    - Ông ta võ công tầm thường, chữ nghĩa chàng màng lỗ mỗ, nhờ nhạc phụ Trần Chân của đệ phò tá mới thành danh, vinh hiển. Năm Tân Mùi vua sai Duy Sản cầm ba ngàn quân đi dẹp loạn ở Sơn Tây. Ông ta hùng hổ dẫn một ngàn quân đi trước đánh nhau với loại giặc cỏ Trần Tuân cũng bị thua, thuộc hạ chỉ còn 30 người, may nhờ nhạc phụ của đệ ứng cứu kịp thời nên mới thắng lại mà lúc về triều vẫn trơ trẽn khoe khoang tự mãn. Những kẻ bất tài ngu dốt lên nắm quyền to đều vô sỉ, thớ lợ thế cả. Từ ngày Lương Đắc Bằng cáo quan về quê, nhất là khi Nguyễn Văn Lang chết, ông ấy nghênh ngang đeo gươm ra vào hoàng cung, chuyên quyền hống hách. Theo đệ phỏng đoán sớm muộn gì ông ấy cũng phế vua Tương Dực để lập vua mới cho dễ sai bảo, lấn quyền. Huynh cứ đợi mà xem!…

    Trên đường về nhà bẩm lại với cha những điều vừa dò hỏi được, Bùi Trụ không khỏi bồn chồn lo lắng cho số phận của Lệ Thanh. Nàng cũng có mặt trong cuộc đấu khẩu giữa hoàng hậu Khâm Đức với Trịnh Duy Sản. Người nhỏ nhen thù dai như Duy Sản sẽ không bỏ qua việc này. Nếu phỏng đoán của Đăng Doanh là thật, liệu trong đám loạn quân nàng có thoát ra được khỏi chốn hoàng cung bao năm như nấm nhà mồ chôn chặt mối tình thời thơ ấu của ta với nàng. Người thâm trầm kín đáo như Mạc Đăng Doanh dám nói ra một phỏng đoán động trời chắc hẳn đã có nguồn tin chính xác và dường như có ý ngầm mách bảo ta biết sớm để chuẩn bị chờ thời cơ đến để giải thoát nàng. Lâu nay ta vẫn thường tâm tình với bạn rằng, suốt đời này ta chỉ yêu có Lệ Thanh dù biết mình có duyên mà không có phận. Doanh đã động viên ta nếu trời còn có mắt ắt có cơ may gặp lại. Ta với Doanh là chỗ thâm giao, tình như thủ túc, vừa đồng môn lại vừa đồng niên. Doanh chỉ kém ta vài tháng vẫn khiêm nhường xưng mình là đệ, thật ra Doanh hơn hẳn ta một cái đầu cả về học vấn lẫn khả năng xét đoán thời thế. Được kết giao với người như thế là một diễm phúc lớn. Chỉ thương Lệ Thanh giờ này nàng đang làm gì trong cung và nàng có còn nhớ đến ta chăng?...

    Bùi Trụ đâu biết ở một nơi kín đáo trong kinh thành gần bến Thái Cực đang có một cuộc mật đàm do Trịnh Duy Sản chủ trì. Những người trong phe phái của ông tham dự có Trịnh Duy Đại, Lê Quảng Độ, Trình Chí Sâm. Chờ mọi người an tọa, Duy Sản nói:

    - Tương Dực hoang dâm vô độ, bỏ bê triều chính, sát hại các vương công và làm nhục đại thần. Nay ta muốn phế bỏ, lập vua mới, các vị nghĩ sao?

    - Việc ấy đã rõ như ban ngày, khỏi cần bàn nữa- Quảng Độ nói.

    - Nếu muốn ta phải làm ngay kẻo đêm dài lắm mộng- Chí Sâm tiếp lời.

    Duy Sản quay sang em trai thấy Duy Đại có vẻ trầm ngâm suy nghĩ rất lung bèn hỏi sẵng:

    - Huynh trưởng đừng nóng giận. Đệ là người một nhà, không sát cánh cùng huynh trưởng mưu việc lớn thì còn ai nữa. Đệ chỉ nghĩ họ Lê đã thối nát đến cùng cực, sao họ Trịnh ta không đứng ra thay trời hành đạo?

    Quảng Độ nghe vậy toát mồ hôi, tay run cầm cập, lắp bắp nói:

    - Chưa nên, chưa… chưa nên đâu!... Lòng người vẫn còn đang hướng về thời Thái Tổ, Thánh Tông, ta sợ việc không xong thành kẻ đại nghịch bất đạo.

    Chí Sâm cũng bàn xen:

    - Thiển nghĩ, Mỹ Huệ hầu làm vua không ngai có khi hay hơn. Khi xưa ở bên Tầu có loạn tam quốc, Tào Tháo uy quyền trùm thiên hạ vẫn không cần soán ngôi, chấp nhận làm Ngụy vương, chờ đến đời con Tào Phi thay Hán lập Tấn là hợp với ý của Quảng Độ đại nhân vừa nói.

    - Vậy theo chú Đại ta phải làm sao?

    - Đệ xin huynh trưởng và chư vị ngồi đây tính kỹ hai việc: Một là vụ binh biến năm nay khác với vụ binh biến năm Kỷ Tỵ (1509) vì năm đó Nguyễn Văn Lang là tướng ở bên ngoài có toàn quyền điều động quân binh Tây Đô kéo về kinh đô, lại thêm có Lê Oanh mượn danh Cẩm Giang vương Lê Sùng hiệu triệu các quan và binh lính các lộ nên rất an toàn. Nay chúng ta ở trong kinh thành muốn làm binh biến phải thật bí mật bất ngờ, giải quyết nhanh gọn trong một đêm, khi triều thần và quan binh các lộ biết thì sự đã rồi, tất phải nghe theo. Hai là phải tìm cho ra một người trong hoàng tộc ngu độn lên ngôi thay cho Tương Dực để ta sai khiến sau này.

    - Được lắm! Chú Đại quả là người túc trí đa mưu. Giờ ta đi vào hai việc chính chú Đại vừa nêu. Tướng tâm phúc của ta là Trần Chân hiến kế rất hay. Ta chỉ cần chọn 1000 dũng sĩ giỏi võ nghệ để cải trang thành dân thường tụ tập dần từng tốp ở làng chài ven sông Cái, chờ lệnh ta là nửa đêm xông vào thành chém giết. Về vũ khí ta sẽ sai tướng Nguyễn Kính bí mật về bản doanh ở Đông Bắc cho thuyền lớn chở về neo đậu ở bến Bắc Thần này, ngụy trang thật khéo như thuyền chở đầy than. Còn lại việc quan trọng là tìm người thay Lê Oanh, ý ta muốn chọn Lê Y, con trai của Cẩm Giang vương Lê Sùng các ông nghĩ sao thì cho ta biết ngay tại đây?... 

    Cuộc tranh luận chọn người kế vị vua Tương Dực diễn ra sôi nổi và khá căng thẳng. Lê Quảng Độ và Trình Chí Sâm ủng hộ Duy Sản chọn Lê Y, chỉ có Duy Đại khăng khăng một mực đòi chọn Lê Quang Trị, con của Mục Ý vương Lê Doanh. Lý do Duy Đại đưa ra cũng khó bác bỏ vì Lê Y là cháu ruột Lê Oanh, cùng nòi Kiến vương Lê Tân nên sợ rằng sau này đủ lông đủ cánh sẽ dở chứng, khó sai bảo. Mặt khác Quang Trị mới 8 tuổi, càng dễ làm bù nhìn rơm cho ta sử dụng để sai khiến tất cả triều đình. Duy Sản nhiều lần lừ mắt khó chịu vì đứa em trai hỗn hào, một mình một ý… Khách ra về hết, Duy Sản vẫn ngồi lại bộn bề bao toan tính. Ngày giờ khởi sự đã định. Điều ta lo nhất là chưa lôi kéo được Mạc Dăng Dung nhập bọn. Con người này thực bí hiểm. Sau cái vẻ ngoài an phận lánh xa mọi phe phái, không ham tranh đoạt, nhưng bên trong chưa hẳn vậy. Thuộc hạ của ta bẩm lại, cha con họ Mạc nắm độc quyền các mối buôn bán với bọn thương gia, tay chân của sứ thần  nhà Minh là Hy Tăng. Lợi nhuận mấy năm qua kiếm được nhiều vô kể, nhưng cha con họ ở kinh thành sống rất thanh đạm. Dường như ngân lượng được chuyển hết về quê để họ Mạc chiêu mộ nhân tài và dũng sĩ trong thiên hạ. Vậy mà họ Mạc vẫn kín bưng, khó dò ra tâm địa Đăng Dung đang toan tính những gì. Trước mắt không mong họ Mạc nhập bọn, nhưng chí ít phải thuyết phục Đăng Dung hứa cho Ty đô cấm vệ quân án binh bất động để các dũng sĩ của ta rảnh tay hành sự. Việc khó này ta đã giao cho Trần Chân, nhạc phụ của Đăng Doanh lo liệu, hy vong sẽ sớm được giải đáp. Giờ trong cuộc mật đàm vừa rồi ta lại thêm một mối lo lớn hơn. Thằng em trai Duy Đại thật ngông cuồng, càng ngày càng lộ rõ nó ôm tham vọng không nhỏ, muốn lấn át cả quyền của ta. Quyền lức là thứ không thể nhường cho ai. Đã dấn thân vào cuộc tranh đoạt ta chỉ tin có mình, không thể tin ai khác dù nó là em ruột. Có lẽ từ hôm nay ta phải cho người tâm phúc giám sát, dò la mọi biểu hiện của thằng em trai phản phúc này…

    Đăng Doanh thấy có người bên dinh của Trần Chân sang gọi, liền vội gặp cha bàn bạc. Hai cha con họ Mạc đoán chắc rằng Trịnh Duy Sản muốn làm loạn nên mượn tay Trần Chân lấy tình thông gia để lôi kéo mình. Đăng Dung dặn kỹ:

    - Triều Lê càng loạn thì họ Mạc ta mới có cơ may thay trời hành đạo con ạ! Nếu nhạc phụ con có nói hở ra điều gì về ý đồ của Trịnh Duy Sản con chỉ dạ vâng như người ngoài cuộc, không biểu lộ thái độ gì. Một khi họ tỏ ý muốn lôi kéo ta tham dự vào cuộc nổi loạn, con nên tỏ ra hèn nhát lấp lửng chối quanh hoặc đùn đẩy sang cha. Cuối cùng con dường như miễn cưỡng nghe lời nhạc phụ hứa sẽ thuyết phục cha án binh bất động là đủ, con hiểu chưa?...

     Đăng Doanh lễ phép chào cha rồi hối hả đi ngay. Tới nơi chàng thấy nhạc phụ tươi cười niềm nở khác thường. Ông xuống sân dắt tay con rể ân cần hỏi:

    - Đã lâu ta bận việc quân không gặp, nghe ông Bùi Xương Trạch khen hiền tế học hành tấn tới ta cũng mừng. Lệnh đường bên nhà có khỏe? Mẹ con Bảo Khánh thế nào?...

    - Dạ bẩm nhạc phụ, song thân con và Bảo Khánh vẫn khỏe, còn cháu Mạc Phúc Hải của ông rất ngoan, bi bô suốt ngày nom dễ thương lắm!... Chắc nhạc phụ gọi con gấp hẳn có việc hệ trọng cần chỉ dạy?

    Trần Chân khẽ gật đầu im lặng hồi lâu. Ông đưa con rể vào buồng trong, khép kín cửa và dăn gia nhân không được cho ai quấy rầy. Trà đã pha sẵn. Ông bảo chàng nhấp vài ngụm cho ấm dạ rồi ôn tồn nói:

    - Chuyện hôm nay ta nói là tối mật, nếu lộ ra sẽ mắc họa chu di cửu tộc.

    - Dạ thưa nhạc phụ con hiểu và xin lắng nghe.

    - Việc Mỹ Huệ hầu bị vua làm nhục chắc con đã biết. Ông ấy rất căm giận muốn phế Lê Oanh, đưa Lê Ý lên thay.

    - Chuyện tày đình thế làm sao con giám hé răng tiết lộ, nhưng con sợ lắm! - Chàng vờ run cầm cập nói tiếp- Bẩm nhạc phụ con xin cáo từ.

    - Ấy chết, con hẵng bình tâm nghe ta nói hết đã. Binh quyền đang nằm hết trong tay Mỹ Huệ hầu. Các quan lớn trong triều cũng ngả hết về phe ông ấy. Mưu kế và ngày giờ khởi sự đã định. Ta vì thương hiền tế với mẹ con Bảo Khánh nên mới bắn tin để lệnh đường bên nhà nên theo về phe ông Sản cho gia quyến được an toàn.

    - Nhưng còn cánh quân lớn của Nguyễn Hoằng Dụ chưa chắc đã chịu theo- Đăng Doanh vờ lưỡng lự thăm dò.

    - Điều ấy cũng đã được tính trước, mọi việc diễn ra chỉ loáng một đêm sẽ xong. Khi Hoằng Dụ biết thì sự đã rồi dẫu có tài thánh cũng không xoay chuyển nổi…

    - Cha con là người thật thà, không ham hố gì, chỉ an phận làm chức quan nhỏ và tập các chiêu tuyệt kỹ trong sách võ công gia truyền. Con sợ rằng với bản tính nhút nhát, cha con sẽ không dám tham dự vào bất cứ phe phái nào đâu.

    - Vậy ta chỉ cần con khuyên lệnh đường bên nhà tảng lờ không biết, lúc xảy ra biến cố thì án binh bất động là được.

    - Vâng, thưa nhạc phụ! Con hứa sẽ thuyết phục cha làm như thế…

    Đăng Doanh ra về lòng thầm bái phục cha mình liệu việc như thần. Chàng thương nhạc phụ có tài lại rất trung nghĩa bị anh em họ Trịnh lợi dụng mà thôi. Thật tiếc choTrần Chân phải tôn thờ, cúc cung tận tụy cho một kẻ bất tài, vô sỉ mà ông ngây thơ nhận làm nghĩa phụ, uổng phí một đời danh tướng. Bất giác chàng nhớ đến Bùi Trụ, thương nàng Lệ Thanh tài sắc vẹn toàn mà bao năm nay phải làm nô lệ tình dục cho hai ông vua như loài quỷ ác. Chàng nhủ lòng, đợi khi sự biến ở hoàng thành sắp diễn ra trước một canh giờ ta sẽ sai người mật báo cho Bùi Trụ trực sẵn ở cổng phía Nam thừa cơ xông vào giải cứu cho nàng Lệ Thanh…

    Sớm ngày mồng sáu tháng tư năm Bính Tý, người của Trịnh Duy Sản phao tin đồn khắp kinh thành rằng, bọn giặc Trần Cao đông như kiến cỏ đang kéo quân từ lộ Hải Dương đánh thẳng về kinh đô, tình hình rất nguy cấp. Dân chúng nghe vậy rủ nhau không họp chợ, các cao lâu tửu quán ở phường Hoè Nhai cũng đồng loạt đóng cửa. Duy Sản dẫn theo tướng Trần Chân vào cung xin vua về bản doanh Đông Bắc mang đại quân về dẹp giặc Trần Cao. Vua hoảng sợ vội vàng chuẩn y. Hai ông vờ mang theo hơn trăm kỵ binh phi ra khỏi thành. Được hơn chục dặm họ quay lại bến Thái Cực kiểm tra lần cuối, giao cho tướng Nguyễn Kính chỉ huy trân tập kích. Theo mật ước giữa các nhóm dũng sĩ, canh ba đêm ấy, hơn ngàn người lăm lăm tay kiếm hoặc đoản đao từ bến Thái Cực bờ Nam sông Cái nhất tề ào ạt xông lên, đánh vào cửa Bắc Thần của hoàng thành. Quân canh cổng và cả những đội quân dũng mãnh của ty đô cấm vệ đã có lệnh của Mạc Đăng Dung không dám giao tranh, thảy đều án binh bất động. Duy chỉ có vài trăm lính ngự lâm bảo vệ vua và hoàng cung liều chết chống cự, nhưng vì lực lượng quá chênh lệch lại bị bất ngờ nên họ bị dồn ép từ cửa Bắc đến cửa Nam hoàng thành , chết và bị thương già nửa, số còn lại đều phải quy hàng quân của Nguyễn Kính. Vua Tương Dực sau cuộc hành lạc với ả kỹ nữ ngoài thanh lâu của mụ chủ người Tầu do Khương Chủng dâng tiến đang còn gối đầu lên tay người đẹp ngủ vùi. Thái giám ba lần chạy vào vén màn tâu trình giặc đã vào được hoàng thành vua mới choàng tỉnh, hớt hải hỏi lại: “Giặc nào, giặc nào?...”. Thái giám lại tâu: “Chắc là giặc Trần Cao.” Vua nghe vậy chạy ra trước thềm, nghe thấy tiếng gươm đao loảng xoảng, lửa cháy khắp nơi, vội chạy tắt ra cửa ngách đổ phân của đám nô tỳ, đến chuồng tìm được một con ngựa ô nhảy lên phi đại ra cửa Bắc Thần ra đến cầu Dừa thì vòng lại cửa Nam hoàng thành. Tương Dực phi đến hồ Chu Tước ở phường Bích Câu thì gặp ba tướng Duy Sản, Trần Chân, Nguyễn Kính cưỡi ngựa đứng chờ sẵn từ lâu. Vua hỏi: “Giặc ở phía nào?” Trịnh Duy Sản vỗ bờm ngựa cười vang không đáp. Vua hoảng sợ quay ngựa về hướng Tây chạy tiếp. Duy Sản liền đưa mắt ra lệnh cho võ sĩ hộ vệ của mình là Nguyễn Hạnh rút kiếm đuổi theo đâm vua ngã ngựa, bồi thêm vài nhát cho chết hẳn. Sau đó ông sai võ sĩ Hạnh cùng vài người mang xác vua về quán Bắc Sứ vứt vào trong rồi châm lửa đốt. Lúc này Lệ Thanh cũng dìu hoàng hậu Khâm Đức chạy thục mạng ra cửa Nam hoàng thành. Theo sau có một bóng đen liên tục bám đuổi, cách hai người chừng trăm bước chạy. Quân lính kháo nhau rằng vua vừa bị giết ở hồ Chu Tước, xác đang đem về quán Bắc Sứ, hoàng hậu nghe thấy rụng rời tay chân, giục Lệ Thanh cùng chạy nhanh về phía đó. Tới nơi, lửa đã cháy rực quanh tòa nhà. Hai người cùng òa lên khóc nấc, lao vào bên trong tìm xác Tương Dực. Bóng đen thấy thế cũng lao theo. Một thanh quá giang bén lửa từ lâu chợt rơi xuống đầu vua nom thật thương tâm khiến hoàng hậu cũng nhảy bổ vào ôm lấy xác vua cùng chết trong đuốc lửa tàn bạo. Bóng đen kia chính là Bùi Trụ. Chàng chỉ kịp nhảy qua xác vua, kéo tay Lệ Thanh đang vật vã khóc than, vực nàng đứng dậy rồi bế thốc lên vai chạy miết về hướng hồ Tây. Chàng như có Trời, Phật trợ giúp, chạy mãi không biết mệt, đến cửa chùa Tiên Thiên thì dừng lại. Ni sư trong chùa nghe tiếng đập cửa thống thiết gọi to, vội ra mở cổng đón chàng vào trong trai phòng. Bà đỡ Lệ Thanh xuống giường khám qua và nói:

    - Mô Phật! Nữ thí chủ này gặp hỏa nạn bị bỏng nặng ở bụng và tứ chi, may không bị bỏng ở mặt.

    - Bạch thầy, giờ con biết làm sao đây?- Bùi Trụ nghẹn ngào nói trong nước mắt.

    - Thí chủ đừng lo. Vết bỏng mới chỉ ở phần da, chưa ăn vào sâu trong thịt. Nhà chùa sẵn có phương thuốc trị bỏng rất công hiệu. Thí chủ chờ ta một lát.

    Nói rồi bà chạy xuống dãy nhà phía sau, mang lên một bát sứ đựng loại nước sánh đặc màu vàng nhạt và một rổ tre nhỏ đựng thảo dược. Ni sư giải thích:

    - Thứ nước này dùng để sơ cứu kịp thời lúc bệnh nhân vừa mới bị hỏa nạn. Vì vậy nhà chùa phải chế biến trước, cất đi chờ lúc dùng đến. Nó gồm hoa phù dung tươi lượng vừa đủ đem ngâm trong dầu ăn cho đến khi hoa chìm xuống đáy thì lọc bỏ bã lấy nước. Lúc sơ cứu ta dùng bông hoặc vải thưa mỏng thấm dầu thuốc này bôi nhẹ nhàng vào vết thương vài lần, cách nhau nửa canh giờ. Làm như vậy vết bỏng sẽ khô dần, không chảy nước và bớt bị dát dần. Việc chữa trị tiếp cho đến khi liền da khỏi hẳn phải dùng thuốc bột chế từ thảo dược ta đang cầm theo đây, lát nữa cậy nhờ thí chủ giúp một tay.

    - Bạch thầy cứ chỉ dạy, con sẽ lập tức làm ngay, dù phải thức hết đêm con cũng cố làm xong để chữa trị cho nàng.

    - Vậy thí chủ hãy lại gần cầm chiếc rổ này mà nghe kỹ lời ta dặn, trong rổ này có bốn loại thảo dược, vị chính là hoa phù dung kết hợp với ba vị phụ còn lại, con phải cân đong đo đếm đúng theo tỷ lệ như sau: hoa phù dung cân đủ 18 hoa cộng với đại hoàng 12 hoa, bạch chỉ 9 hoa, cam thảo 9 hoa. Nữ thí chủ này bị bỏng nặng ở nhiều chỗ tất phải dùng nhiều nên ta nhân lên gấp năm lần như thế. Cân đong xong, thí chủ cho vào nồi đất xao tới lúc khô vàng nhưng không được để bị cháy. Sau đó thí chủ úp nồi xuống đất, chờ đến khi nguội thì lấy thuyền tán của nhà chùa đem tán thành bột mịn. Khi dùng đem trộn với dầu vừng đắp vào nơi bị tổn thương. Lúc tán thuốc thành bột phải giữ hai chân cho thăng bằng, kiên trì đạp không ngừng nghỉ, vất vả lắm đấy, thí chủ có chịu nổi không?

    - Bạch thầy con chịu được, xin thầy yên tâm.

    - Mô Phật! Thí chủ mau lui ra làm việc, còn ta lúc này phải cởi đồ cho nữ thí chủ mới sơ cứu được…

    Bùi Trụ hăm hở đi chế thuốc bột. Chàng thầm nhủ lòng, mình sẽ lưu lại chùa làm thuốc và chăm sóc Lệ Thanh đến khi khỏi hẳn. Nàng đã được giải thoát, giờ đây nhất định phải thuộc về ta, mãi mãi hai ta là của nhau. Mặc cho người đời mải mê tranh đoạt. Mặc cho thế sự đảo điên, đất trời sập đổ. Chỉ có ta và nàng dìu đỡ nhau đi nốt quãng đời nhiều khổ đau đắng chát vẫn rợn ngợp niềm yêu. Đêm chìm vào sâu. Sương rơi mỗi lúc một dày thêm. Không gian đặc quánh một màn đen tối thẫm. Trong làng Trích Sài vọng lại tiếng thoi đưa lách cách của những khung cửi dệt gấm và xa nữa là tiếng thậm thình của nhịp chày giã dó bên làng làm giấy Yên Thái. Cuộc sống cần lao quanh kinh thành vẫn không ngừng nghỉ, bất chấp mọi sự điên cuồng chém giết nơi hoàng cung ngút trời lửa khói. Nào đâu cung điện 100 nóc nguy nga, tráng lệ? Nào đâu cửu trùng đài uy nghi, ngất ngưởng bên dòng sông Tô? Nào đâu ngai vàng quyền lực chốn thềm rồng nhơ nhuốc? Tất cả giờ đây đều theo xác ông vua lợn hóa thành tro bụi trong ngọn lửa hung tàn. Chỉ có đức hạnh và tình yêu ở lại mãi với cõi người. Chỉ có muôn dân bách tính trường tồn cùng giang sơn Đại Việt...  

    7. Xuân Tây Thi xuất ngoại

    Xuân bước xuống sân bay quốc tế Chek Lap Kok ở Hồng Kông lúc chập tối, không thấy con gái Tường Vi ra đón. Nó bây giờ mang hai quốc tịch Mỹ và Việt Nam nên còn có tên trong Hộ chiếu Mỹ là Vera Nguyen. Đó là tên Mỹ gốc cả Nga lẫn Việt. Hồi còn ở “Mát”, hai mẹ con thường hay gặp các cô gái Nga có tên dễ thương Ta-nia, Na-ta-lia, Vê-ra… Họ thực hồn nhiên, chân thực và đáng yêu biết bao. Tường Vi cũng giống như đa phần trí thức ngoài Bắc vẫn còn lưu luyến nước Nga, yêu con người Nga nên khi nó chọn tên mới Vera Nguyen mình tán thành ngay. Không như với người Nga, nó rất dị ứng với mấy ông Tầu khựa. Cái thằng Hứa Văn cũng thật quá đáng. Hắn gặp con gái mình xinh đẹp, rực rỡ như đóa tường vi chớm nở lại dám cả gan bờm xơm, tính hoa thơm đánh cả cụm chăng. Đừng có tưởng bở, bà chỉ coi mày như cái máy đếm tiền, lên giường với mày như ngày xưa lên giường với hai thằng Nga ngố ở “Mát” thôi… Xuân nghĩ vậy, khẽ nhếch mép cười, đẩy xe hành lý, xách túi da cá sấu bước ra cửa đã thấy A Hứa cầm hoa đứng đợi ở sảnh. Hắn nom gầy gò, khô đét, người thấp bé nhẹ cân. Cặp đít chai dày cộm đeo ở mắt chắc cỡ 7 hay 8 đi-ốp chứ không ít. Nàng nhận hoa, liếc mắt đưa tình với A Hứa chợt thoáng liên tưởng đến A Trương cao lớn, ục ịch cái bụng tròn to như thùng nước phở. Hai đứa mà đứng cạnh nhau giống như Tôn Ngộ Không với Trư Bát Giới trong phim “Tây du ký” có bài hát “Xin hỏi con đường” khá hay. Lúc nhỏ ở K Tường Vi rất thích nghe bài hát này. Có lẽ vì biết A Hứa sẽ ra sân bay đón nên con bé gớm cái bản mặt ấy, không chịu ra đón mẹ. Thôi được, đành đợi về khách sạn hai mẹ con sẽ nói chuyện sau. Nàng nghĩ vậy và theo A Hứa ra xe chạy băng băng trên đại lộ, hướng về phía bờ Nam vịnh Victoria, nơi có Trung tâm hội chợ triển lãm quốc tế Hồng Kông nổi tiếng thế giới. Liền một khối với khu nhà liên hợp đồ sộ cửa kính khung nhôm dành cho Hội chợ triển lãm là hai tòa cao ốc nguy nga tráng lệ: một bên là khách sạn Hoàng Đế, còn bên kia là tòa cao ốc văn phòng, có rất nhiều công ty trong đại lục sang hoặc từ nước ngoài đến thuê mở chi nhánh. Hai tòa nhà này có chung một hoa viên rực rỡ cờ và hoa các loại quanh năm khoe sắc. Ở giữa hoa viên, phía trước sảnh mỗi tòa cao ốc, thay cho bức tường phong thủy còn có đơn nguyên kiến trúc độc đáo. Bên khách sạn là bức phù điêu khổng lồ mô tả lại tích “Càn Long du Giang Nam” với những đường nét trạm khắc tinh tế và điêu luyện. Bên tòa cao ốc văn phòng là tấm bảng chỉ dẫn điện tử cỡ lớn, liên tục hiện lên cả một rừng tên và số tầng, số phòng của vài chục công ty lớn nhỏ, mỗi lần hiện 5 công ty nền xanh chữ đỏ bằng Anh ngữ và Hoa ngữ, đứng nhấp nháy lâu chừng nửa phút. Trên tầng 21 của cao ốc đó có hai công ty thuê bao đã được 5 năm: Vera company limited của Tường Vi mang quốc tịch Mỹ và Zola company limited của A Hứa, do vợ hắn có quốc tịch Canada đứng tên làm chủ. A Hứa muốn mời Xuân ghé qua trụ sở chi nhánh của hai công ty, nhưng nàng lắc đầu đòi về khách sạn vì nôn nóng gặp con gái. Tường Vi đang ngồi chờ mẹ ở sảnh khách, nhâm nhi ly café Capuchino. Thoáng thấy Xuân, cô lao nhanh ra cổng, ôm chầm lấy mẹ. Hai mẹ con mừng rỡ, hàn huyên ríu rít. Nó hơi gầy và xanh, nhưng vẫn đẹp lộng lấy, đầy sức quyến rũ, không hổ danh là con gái người mẹ có biệt danh Xuân Tây Thi này. Nàng khẽ mỉm cười tự mãn, thầm nghĩ... Tường Vi đưa mẹ lên phòng tắm rửa, nghỉ ngơi rồi ăn cơm tối ở nhà hàng đặc sản trên tầng thứ 36, vừa ăn vừa ngắm cảnh vịnh Victoria lung linh trong bóng đêm huyền ảo. Xuân ăn không thấy ngon miệng vì trong đầu bộn bề những lo toan, suy nghĩ về những biến đổi bất thường gần đây của con gái. Nó nhiều lần gọi điện cho mẹ, tỏ ý cương quyết không ký tiếp các hợp đồng mua gạo của Việt Nam theo bài bản mà Xuân và Hứa Văn lâu nay dày công xếp đặt. Nó còn quả quyết đó là một tội ác với những nông dân miền Tây Nam Bộ. Dù Xuân đã dùng đủ mọi cách giải thích, khuyên nhủ, nhưng nó vẫn khăng khăng không thay đổi những ý định điên rồ nên nàng mới phải có mặt ở đây, giữa lúc Quyền đang rất cần nàng giúp sức trong cuộc đấu đá nội bộ ở tỉnh K. Lúc đi Quyền dặn: “Em cố gắng thu xếp thật ổn vụ cháu Vi. Bọn trẻ bây giờ được đi Âu- Mỹ học hành là dễ nhiễm tư tưởng dân chủ phương Tây, khó tẩy não lắm!...” Lúc nãy, trong lúc chờ thức ăn mang lên, Xuân ngồi nhấp mấy hớp rượu vang, nhỏ nhẹ nói với con:

    - Mẹ buồn lắm, Vi ạ!

    - Con có làm điều gì thất đức để mẹ phải buồn đâu- Vi đáp lạnh tanh.

    - Nhưng con làm thế là lỡ hết việc làm ăn của mẹ. Bác Quyền và bác Uy cũng vì chuyện của con mà như ngồi trên đống lửa.

    - Con biết công ty Vê-ra chỉ là chân rết của tập đoàn Bil- Kel. Bác Uy là nhà doanh nghiệp không tính, nhưng bác Quyền là quan chức thì phải yêu dân, ủng hộ quan điểm của con chứ lo cái nỗi gì?

    - Đã làm ăn thì phải có lãi, con học nhiều chắc thừa biết thương trường là chiến trường, chỉ có khôn sống mống chết, không lý tưởng hão huyền được.

    - Nào con có dám đòi hỏi nhiều nhặn gì cho cam. Con chỉ yêu cầu ta nâng giá mua gạo vụ mùa tới lên vài giá lẻ ở phần đuôi con số.

    - Kinh doanh tất phải hạch toán, con đòi nâng giá lấy tiền đâu bù vào, hở con?

    - Thì mẹ bảo bác Quyền, bác Uy cắt béng cái khoản hoa hồng, hay đút lót cho các ông bà ở Anna Food rồi ở các công ty con của Anna Food như Bali Food, Soti Food, Vaco Food… lấy tiền bù vào giá mua. Một bầy “chuột Food”, mẹ ơi! Con nghe nói có nhà sử học Bùi Hiếu Dân, bạn của vợ bác Quyền viết sách gọi vua Tương Dực là “Trư Vương nước Việt”. Trong cái vương quốc ngành gạo bọn họ là “Thử Vương”, một thứ “Vua Chuột” tập thể đấy mẹ ạ!

    - Thế sao được. Ở đời ông không mất chân giò bà sẽ không thò chai rượu.

    - Mẹ lầm rồi. Từ lâu họ đã rơi vào cái bẫy của lão A Hứa, giờ quẫy không ra được đâu. Ta nói mình cần tiền nâng giá mua gạo cho nông dân đỡ khổ cơ mà. Họ không dám chửi ta bội tín, còn muốn mở cũi làm ăn với đối tác khác thì họ chót rời bỏ bạn hàng quá lâu giờ nối lại đâu có dễ. Mặt khác, muốn mở hướng làm ăn với châu Phi thì giá cước vận chuyển Việt Nam đắt hơn các nước khác cỡ 15 đô một tấn, nếu phải xuất giá CIF tại cảng biển Bắc Phi làm sao có thể cạnh tranh được với Thái Lan hay Ấn Độ ?…

    - Mẹ hết cách với con rồi Vi ơi, thương mẹ với!

    - Nói thật, con muốn bóp mồm mấy con chuột bự ấy cho lè cơm ra, trả miếng ăn lại cho bao nhiêu con người khốn khổ là cách con thương mẹ, yêu kính bác Quyền, bác Uy tốt nhất, con không thay đổi ý kiến đâu.

    Xuân nhìn con thở dài. Bữa ăn tẻ nhạt và buồn chán vô hạn. Nàng nhai cơm như nhai rơm, nuốt không trôi. Tường Vi cũng ăn vội qua bữa rồi lầm lỳ bỏ ra quầy ba uống rượu nặng và nghe nhạc Zaz. Một mình lững thững quay về phòng, Xuân như bị phát ban, nóng ran và ngứa ngáy khắp người. Nàng vào buồng tắm tẩy trang, lau qua người và thay bộ đồ ngủ bằng lụa Giang Tô màu mỡ gà rồi vén màn, mở cửa sổ ngắm nhìn vịnh Victoria. Xa xa nổi lên quầng sáng đẹp của tấm bảng quảng cáo đèn màu rất to trên bờ Kowloon đối diện. Song lúc này nàng chẳng còn thiết ngắm cảnh nữa. Xuân lên giường nằm thượt, suy nghĩ mông lung. Bộ đồ ngủ này do Hứa Văn tặng hôm nàng từ California dự lễ tốt nghiệp của con gái về nước đã ghé qua thành phố Côn Minh bàn kế hoạch  thành lập Vera company Limited. Hôm đó, A Hứa hớn hở nói:

    - Anh nóng lòng đợi Xuân mấy tuần nay như đứng ngồi trên tổ kiến lửa.

    - Có chuyện gì thế?

    - Em về báo cáo ngay cho A Quyền, A Uy đầu tư cho con gái em lập công ty trách nhiệm hữu hạn bên Mỹ rồi mở chi nhánh ở Hồng Kông chuyên nhập gạo của Việt Nam.

    - Em vẫn chưa rõ ý đồ, anh nói cụ thể ra xem nào.

    - Bắc Kinh vừa ra chỉ thị ngừng nhập gạo của Việt Nam theo đường chính ngạch qua các cảng biển Trung Quốc mà đẩy mạnh nhập theo đường tiểu ngạch được quản lý chặt thông qua Biên mậu. Đây chẳng qua là độc chiêu của mấy ông vua lúa gạo đệ trình lên Chính phủ Trung ương chứ nhu cầu nhập gạo của Trung Quốc chỉ có lên không xuống bao giờ. Anh với em ta cùng phối hợp nhập gạo của Việt Nam về ba tỉnh thành Vân Nam, Quý Châu và Trùng Khánh là địa hạt của anh thao túng dễ dàng.

    - Dào ôi!... Buôn bán cò con mỗi ngày mấy xe gạo xuất tiểu ngạch em không thèm đâu, ăn chẳng bõ dính răng-  Xuân bĩu môi nói.

    - Em khờ quá! Cỡ chúng mình lại thèm buôn kiểu cò con thế ư?

    - Vậy anh tính toán cách nào nói cụ thể ra mau, ỡm ờ mãi làm em sốt cả ruột.

    - Nhu cầu nhập gạo của Trung Quốc mỗi năm khoảng trên dưới 2 triệu tấn của Việt Nam và Thái Lan. Tin tình báo kinh tế cho anh biết giá gạo 0,5% tấm của Việt Nam thấp nhất thế giới, dao động trong khoảng 395- 415 đô mỗi tấn, nhưng về Trung Quốc có thể bán 635 đô. Em thử tính xem mỗi năm chỉ cần 1 triệu tấn gạo nếu ta độc quyền nhập từ Việt Nam về Trung Quốc bán sẽ lãi biết chừng nào? Tuy thế, nếu anh lộ mặt ra tranh phần với các vua lúa gạo trong nước sẽ bị họ đánh hội đồng cho tan xác pháo.

    - Và anh đang cần Bil- Kel của em đầu tư cho Tường Vi lập công ty để cùng anh vào cuộc?

    - Đúng thế. Trước hết phải khóa chặt các hộ tiêu thụ của Anna Food ở tất cả các thị trường quen thuộc là Philippines, Indonesia, Malaysia, Iran…

    - Khóa bằng cách nào?

    - Ta chào hàng cho khách quen của họ giá thấp hơn 5 đến 10 đô một tấn, sau đó mua hàng của chính Anna Food giao cho khách.

    - Lỗ này ai chịu cho ta đây?

    - Năm đầu ta chấp nhận có thể sẽ lỗ hoặc hòa vốn, nhưng cũng vẫn có thể lãi ít, đủ chi phí năm đầu cho công ty. Về điểm này anh sẽ nói sau.

    - Nhưng vốn lớn và đầu vào đầu ra chưa có, em sợ không kham nổi.

    - Trước hết nói về vốn, cả anh và em đúng ra là em đại diện cho Bil- Kel đều đã đến lúc cần chuyển dần tài sản sang Mỹ hoặc Canada. Anh đã chuyển hết gia đình sang định cư ở Canada là nước không có Hiệp định dẫn độ với các nước khác và đã lập được công ty vận chuyển tầu biển riêng, chuyên chở phôi sắt và phân bón sang Việt Nam. Giờ em chỉ cần thuyết phục A Quyền, A Uy chuyển một phần vốn đủ lớn cho con gái em lập công ty mua bán gạo ở Mỹ sao cho khi ký kết hợp đồng có đủ tiền ký quỹ vào ngân hàng trung gian đề phòng rủi ro theo thông lệ quốc tế. Số vốn còn lại, anh sẽ lo chạy để Ngân hàng công thương Trung Quốc (ICBC) chi nhánh Vân Nam đứng ra bảo lãnh cho chi nhánh công ty của Tường Vi ở Hồng Kông. ICBC là ngân hàng thương mại có vốn thị trường hóa và lợi nhuận kinh doanh lớn nhất nhì thế giới. Nó tổng cộng có 203 đơn vị trực thuộc và chi nhánh tại 28 quốc gia, hình thành hệ thống mạng tín dụng toàn cầu hóa ở châu Á, châu Phi, châu Âu, châu Mỹ và châu Úc. Một ngân hàng cỡ ấy đứng ra bảo lãnh cho một công ty Mỹ nhập khẩu gạo, có chi nhánh tại Hồng Kông thì còn ai dám ngờ vực về tiềm lực đối tác nữa.

    - Tuyệt vời!... Em bắt đầu chết mê với kế hoạch của anh rồi đấy.

    - Chưa hết đâu, còn chiêu này nữa mới tuyệt. Người của anh nằm trong giới doanh nhân buôn bán lúa gạo có máu mặt ở Sài Gòn đã cung cấp cho ta danh mục gồm 15 khách hàng lớn của Anna Food và các công ty con ở các thị trường ngoài Trung Quốc vừa nói ở trên. Với tài giao thiệp siêu đẳng của Xuân Tây Thi mà cầm danh mục này đi phô diễn khắp thế giới để ký hợp đồng giao hàng giá CIF tại cảng nước họ vừa rẻ lại vừa tiện lợi hơn Anna Food thì dễ như thò tay vào túi áo, chạy đâu cho thoát. Khi đã khóa chặt các đầu ra của Anna Food trên thế giới, Biên mậu bọn anh lại chỉ thị cho thông quan nhỏ giọt, các xe chở gạo tất bị ùn ứ ngày đêm tại cửa khẩu phía Bắc. Lúc đó nàng Xuân Tây Thi của anh dắt tay con gái nhân danh công ty Mỹ có chi nhánh tại Hồng Kông xuất hiện ở bàn đàm phán, mua gạo giá thấp hơn họ thường xuất một chút, lại mua theo giá FOB ở mạn tầu tại cảng Sài Gòn, không những thế còn cho họ tí hoa hồng thì mẹ con em sẽ là tiên nữ giáng trần cứu họ khỏi vỡ nợ. Về tầu nhận hàng, hãng tầu biển Zola company limited của vợ anh từ lâu đã thuê hẳn đội tầu 3 chiếc của Hà Lan có tải trọng 10 vạn tấn, lúc đi chở phân bón, phôi thép cho Việt Nam, lúc về chở gạo, tiện cả đôi đường. Năm đầu ta ăn ít, đủ chi trả mọi chi phí còn từ năm thứ hai, em muốn giá nào họ chẳng phải nghe, miễn sao họ vẫn có hoa hồng. Giá càng thấp, tiền bo cho họ càng lớn, thế thôi.

    - Cái điều mấu chốt cuối cùng em muốn hỏi lời lãi ăn chia thế nào?

    - Cái này phải rất tế nhị và kín kẽ, quyết không thể hở ra cho các lão bản trong nước của anh biết được là chết chắc. Bề ngoài anh chỉ là môi giới ăn chia với chiến hữu trong nước, còn phần lợi nhuận của em là bọn anh sẽ ký hợp đồng mua hàng với công ty của Tường Vi nhưng giá sẽ được đôn lên bằng giá bọn anh nhập gạo của Thái Lan cùng loại, thường chênh với giá trước đây đã mua của Anna Food từ 20 đến 30 đô một tấn. Ngoài ra em có thể lấy lãi từ chỗ dìm giá em mua của Anna Food tại cảng Sài Gòn, tất nhiên khoản này em phải ăn chia với họ thôi. Như vậy chí ít em cũng có lãi 30 đô một tấn. Nhu cầu nhập gạo của Vân Nam, Quý Châu, Trùng Khánh do bọn anh thao túng được mỗi năm khoảng nửa triệu tấn, có nghĩa mặt hàng gạo cho em lợi nhuận ít nhất là 15 triệu đô mỗi năm. Muốn hơn nữa còn do tài của em làm luật với bạn bè, chiến hữu ở Anna Food, nhất là các “Food” địa phương…

    Xuân nằm ôn lại lịch sử hình thành và phát triển của Vera company limited không khỏi bồi hồi sung sướng bởi lợi nhuận kiếm được trừ năm đầu ra, 4 năm tiếp theo thu về lớn hơn dự tính của nàng và A Hứa rất nhiều. Anna Food, nhất là các công ty con đều ít vốn, chịu áp lực về lãi suất ngân hàng nên họ rất sợ phải xuất giá CIF tại cảng bên mua, làm ăn với công ty Vê-ra được xuất giá FOB tại cảng Sài Gòn, lại có thể ăn chia tùy thích nên giá cả do công ty Vê-ra muốn thế nào được thế ấy. Trụ sở chi nhánh Vera company limited đặt ở tòa nhà AIA màu hồng, nằm ngay chân cầu Ông Lãnh luôn tấp nập khách đại gia lúa gạo miền Tây đến chào mời lôi kéo. Tòa nhà này còn có cái chợ Nga ở tầng trệt nổi tiếng khắp thành phố. Tường vi là thế, hễ có dịp là nó không nguôi nhớ “Mát”, nhớ nước Nga. Tuy vậy mình biết con gái thường hay buồn, một nỗi buồn âm ỉ khó tả. Có lẽ vì mặc cảm tội lỗi với nông dân miền Tây nên nó hay đi du lịch sông nước, kết hợp làm từ thiện ở các địa phương nghèo, mỗi lần chi hàng chục ngàn đô. Về phần Xuân, vẫn biết lợi nhuận của mình chỉ bằng cái móng tay so với lợi nhuận của A Hứa và các chiến hữu ngành gạo của anh ta trong địa bàn Vân Nam, Quý Châu, Trùng Khánh và trong cả ICBC nữa. Nhưng nàng tự nhủ, trong vụ hợp tác làm ăn này họ ở thế kèo trên, mình ở kèo dưới, được họ cho ăn bấy nhiêu cũng đã là quá tốt… Những ngày lưu lại ở Hồng Kông, Xuân cố thuyết phục Tường Vi, nói như van vỉ với con gái. Cuối cùng Tường Vi chịu hứa sẽ làm giám đốc Vera company limited thêm một năm nữa để ký hợp đồng mua gạo của Anna Food, sau đó sẽ nghỉ hẳn để học tiếp bằng Thạc sĩ Quản trị kinh doanh ở đại học Berkeley California, giao hẳn công ty cho mẹ quản lý. A Hứa nói sẽ nhờ cộng đồng người Mỹ gốc Hoa bên California giúp Xuân hoàn tất hộ chiếu công dân Mỹ vì hiện nàng mới chỉ có thẻ xanh, chưa đủ tư cách pháp nhân làm giám đốc Vera company limited.

    (còn tiếp)

    Nguồn: Quỷ Vương. Triệu thuyết lịch sử của Vũ Ngọc Tiến. NXB Hội Nhà văn, 2016.

    Tác giả gửi www.trieuxuan.info

    Mục lục: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

    Bài viết liên quan

  • Nam Đế Vạn Xuân
    • Nam Đế Vạn Xuân

      Với hơn 500 trang, 15 hồi gay cấn, sinh động trong từng câu thoại của các nhân vật lịch sử, Tiểu thuyết Lịch sử Nam Đế Vạn Xuân nằm trong bộ Tiểu thuyết dài tập Vương triều tiền Lý của Nhà văn Phùng Văn Khai. Nam Đế Vạn Xuân tái hiện một cách sinh động lịch sử nước nhà xoay quanh triều đại của nhà nước Vạn Xuân (544-602) giúp chúng ta hiểu và tự hào hơn về lịch sử đánh giặc hào hùng của dân tộc. Với bộ nhân vật lịch sử đồ sộ của cả ta lẫn địch như: Lý Nam Đế, Tinh Thiều, Phạm Tu, Triệu Túc, Triệu Quang Phục, Phùng Thanh Hòa… hay Lương Vũ Đế, Vũ lâm hầu Tiêu Tư, Dương Phiêu, Lý Tắc… tạo nên rất nhiều tình tiết móc ngoặc, những cuộc đấu trí gay cấn hay những lời thoại sinh động của từng nhân vật. Nam Đế Vạn Xuân như một con tàu thời gian đưa ta ngược trở về từng quãng của lịch sử cách đây gần 1500 năm từ khi Lý Bí tu tập tại chùa Cổ Pháp đến thời điểm làm Giám quân ở Đức Châu và cuối cùng là đuổi giặc Lương lên ngôi tại điện Vạn Thọ. Đó cũng là lần đầu tiên Việt Nam có hoàng đế và niên hiệu Thiên Đức là niên hiệu riêng đầu tiên để chứng tỏ nước ta đã giành lại độc lập từ tay Trung Quốc.

    Tìm kiếm

    Lượt truy cập

    • Tổng truy cập57,743,599

    Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

       

      Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

      *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

    Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

      WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

      Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

      The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

      Enjoy life, enjoy Arita experience!