Tìm kiếm

Lượt truy cập

  • Tổng truy cập57,783,256

Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

     

    Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

    *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

    WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

    Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

    The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

    Enjoy life, enjoy Arita experience!

Tiểu thuyết

Người đàn bà trong cồn cát

Kobo Abe

  • Thứ sáu, 16:14 Ngày 08/01/2021
  • Người đàn bà trong cồn cát

    CHƯƠNG 27

    Người ta quàng một sợi dây vào bên dưới cánh tay anh, rồi anh được hạ xuống hố chẳng khác gì một món hành lý. Chẳng ai buồn nói một câu; tựa như mọi người đang dự lễ mai táng vậy. Lòng hố sâu và tối. Trăng trải dài trên cồn cát một ánh sáng mỏng như lụa, làm nổi bật các dấu chân và nếp nhăn của cát. Duy có cái hố vẫn đen ngòm, như muốn khước từ tham dự vào cảnh đêm trăng ấy. Nhưng anh nào có bận tâm tới cảnh vật. Anh bị kiệt sức đến mức, chỉ cần ngẩng đầu lên nhìn trăng thôi cũng đủ khiến anh thấy chóng mặt và buồn nôn.

    Người thiếu phụ, như một vật đen lớn giữa một mảng đen, đang bước bên anh lúc anh lần về giường, nhưng không rõ cớ sao anh không trông thấy nàng. Không, không chỉ riêng người thiếu phụ ấy mà mọi vật quanh anh đều trở nên lu mờ. Thậm chí ngay khi anh gieo mình xuống giường, tâm trí anh vẫn hiện lên cảnh anh đang dốc sức chạy trên cát. Ngay cả trong giấc mộng anh vẫn tiếp tục chạy hoài. Nhưng rồi giấc ngủ của anh nhẹ nhàng hơn. Kỷ niệm về tiếng chó sủa vẫn còn văng vẳng đâu đây, nhưng anh đã nghe thấy tiếng thùng đang được kéo lên hạ xuống. Anh biết cả lúc người thiếu phụ giữa đêm bỏ việc vào nhà tìm cái ăn, và thắp đèn bên cạnh gối anh để ăn. Anh thức giấc hẳn khi trở dậy uống nước. Nhưng vẫn chưa cảm thấy đủ nghị lực để ra giúp nàng.

    Không có việc gì để làm, anh thắp đèn lên và lơ đãng hút thuốc; một con nhện mập mạp nhưng nhanh nhẹn bắt đầu bò quanh cây đèn. Loài mối bị ánh đèn lôi cuốn là lẽ tự nhiên, nhưng một con nhện mà cũng bị lôi cuốn bởi ánh đèn nữa thì cũng lạ thật. Anh đã định dùng đầu thuốc đang cháy đốt nó, nhưng đột nhiên anh kìm tay lại. Con nhện tiếp tục đi vòng quanh cây đèn một cách khá chính xác trong một đường kính từ mười bảy đến hai mươi lăm phân, như cây kim chỉ phút của chiếc đồng hồ. Anh theo dõi xem con vật định giở trò gì, cho đến khi một con bướm đêm có đôi cánh màu xám đậm điểm chấm đen trắng bay phất phơ quanh đó. Nhiều lần cái bóng to lớn của con bướm đêm hắt lên trần nhà, mỗi lần nó lao vào ống thông phong; sau đó nó đậu trên cái quai đèn bằng kim loại, dáng bất động. Anh dí điếu thuốc lá vào thân con vật. Trung tâm thần kinh của nó bị phá hủy liền, và anh hất con côn trùng đang quằn quại đó xuống đường đi của con nhện. Lập tức tấn thảm kịch chờ đợi bắt đầu. Con nhện nhào ngay tới, bám chặt lấy nạn nhân còn ngắc ngoải. Rồi nó bò vòng quanh, kéo theo con mồi lúc này đã bất động. Hình như nó đang liếm môi trước một bữa chén ngon lành.

    Những con nhện loại đó anh chưa được biết bao giờ. Loài này quả là thông minh vì nó biết dùng ánh sáng thay cho mạng nhện. Giữa mỗi cái mạng nhện con vật chỉ biết thụ động, chờ đợi, nhưng bên cây đèn đó nó có thể nhử con mồi của nó lại gần. Dầu sao, điều kiện tiên quyết của phương pháp này phải là một thứ ánh sáng thích hợp. Khó lòng mà kiếm nổi một thứ ánh sáng tự nhiên như thế. Con vật ấy không thể làm nổi cái việc đi tìm một ngọn lửa rừng hay lang thang dưới ánh trăng. Vậy thì đây có phải là một loại nhện mới đã phát triển bản năng của nó bằng cách tiến hóa với loài người? Đây không phải là một giả thiết tồi tệ gì. Nhưng trong trường hợp này, ta có thể giải thích như thế nào về sự cuốn hút của ánh sáng đối với một con bướm đêm? Loài bướm đêm khác với loài nhện, và ánh đèn khó có thể coi là hữu ích trong việc duy trì các loài. Tuy vậy vẫn có một điểm chung; cả hai hiện tượng đã xảy ra sau khi các nguồn sáng nhân tạo ra đời. Sự kiện loài bướm đêm không bay về phía mặt trăng là một bằng chứng hiển nhiên cho hiện tượng này. Nếu như đây là thói quen của một loài bướm đêm thì điều đó có thể hiểu được. Song vì đây là điểm chung cho các loài bướm đêm nên anh chỉ có thể kết luận rằng đây là một định luật bất di bất dịch. Cái tiếng đập cánh mù quáng và điên cuồng do thứ ánh sáng nhân tạo ấy gây ra... sự liên quan phi lý giữa loài nhện, bướm đêm và ánh sáng. Nếu một định luật xuất hiện không cần nguyên do, như định luật này, thử hỏi con người còn biết tin vào cái gì?

    Anh nhắm nghiền mắt. Tựa hồ như có muôn vàn đốm sáng đang bập bềnh trôi trước mặt anh. Khi anh cố chộp lấy chúng, chợt chúng xoáy tít vào và vọt khỏi tay anh. Chúng tựa như chiếc bóng của những con bọ cánh cứng trên mặt cát vậy.

    Anh bừng tỉnh khi nghe tiếng khóc nức nở của người thiếu phụ.

    - Tại sao em khóc?

    Thiếu phụ vội đứng dậy, cố che giấu vẻ bối rối.

    - Xin lỗi anh... em đang định pha cho anh ấm trà...

    Giọng nói đẫm nước mắt của nàng khiến anh lúng túng. Khi nàng cúi xuống gẩy lửa trong lò, trông nàng có vẻ bồn chồn lo lắng lạ lùng, và chỉ ít phút sau anh mới hiểu tại sao lại thế. Anh cảm thấy uể oải, tựa đang buộc lòng đọc nốt những trang sách nhàm chán. Tuy nhiên anh vẫn còn sức để giở những trang ấy. Bỗng anh thấy đau lòng đến mức xót xa cho cái thân phận của mình.

    - Anh đã thất bại!

    - Thưa vâng.

    - Anh thực sự thất bại rồi!

    - Nhưng xưa nay đã có ai làm được như anh... chưa có một ai hết.

    Nàng nói bằng một giọng yếu ớt, song trong đấy chứa đựng một thứ sức mạnh như thể nàng đang muốn biện hộ cho sự thất bại của anh. Một sự dịu dàng đáng mủi lòng biết mấy. Thực bất nhã nếu một tấm lòng dịu dàng như vậy không được đền đáp lại.

    - Chà, rủi quá. Anh đã tính gửi biếu em một chiếc đài phát thanh, nếu anh trốn thoát được.

    - Một chiếc đài phát thanh à?

    - Anh đã nghĩ tới việc này từ lâu rồi.

    - Ồ, không... anh không phải làm thế... - Người thiếu phụ đỏ mặt nói, như thể chị muốn xin lỗi.

    - Nếu em chịu khó làm thêm việc, tự em có thể mua được cái máy ấy. Và nếu em mua nó theo kiểu trả góp thì tiền đóng đợt đầu cũng đã tạm đủ...

    - Phải... đúng đấy. Nếu mua máy theo lối trả góp thì em có thể mua nổi...

    - Khi nào nước nóng, em sẽ kỳ lưng giúp anh nhé?

    Anh bỗng cảm thấy lòng buồn da diết. Hai người có thể cùng xoa dịu vết thương cho nhau. Nhưng cho dù họ cố xoa dịu đến bao lâu chăng nữa, thì những vết thương đó sẽ chẳng bao giờ lành lại được, để rồi cuối cùng họ sẽ bị mòn mỏi đi.

    - Anh không hiểu. Nhưng thiết nghĩ cuộc đời là một cái gì mà con người không thể hiểu được. Kể ra cũng có nhiều loại cuộc đời, và đôi khi nhìn sườn đồi bên kia lại thấy xanh tươi hơn bên này. Đối với anh, cái khó nhất là không hiểu một lối sống như vậy rồi sẽ đưa ta tới đâu. Song có lẽ em sẽ chẳng bao giờ biết được, dầu cho em sống theo lối sống nào đi nữa. Không rõ cớ sao, anh không thể không cảm thấy rằng, nếu có chút việc gì đó để làm có lẽ hay hơn.

    - Em tắm cho anh nhé?

    Nàng nói như để khích lệ anh. Giọng nói ấy vừa êm ái dịu dàng, vừa dễ mủi lòng. Anh thong thả cởi khuy áo và quần ra. Cả người anh như bị phủ đầy cát. (Anh tự hỏi cái người con gái ngày ấy giờ đây đang làm gì?) Lúc này, đối với anh những sự việc mới xảy ra từ ngày hôm kia thôi sao mà đã xa vời vợi.

    Người thiếu phụ bắt đầu xát xà phòng vào một cái khăn bông ướt.

    PHẦN III

    CHƯƠNG 28

    Tháng Mười.

    Những dấu vết mùa hạ vào ban ngày như ngập ngừng chưa muốn cất bước, và nó vẫn đốt cháy cát, khiến đôi chân trần không chịu nổi cát bỏng rẫy quá năm phút. Nhưng lúc mặt trời lặn, những bức tường lở của căn phòng để khí ẩm của đêm lạnh lùa vào làm hai người không ngơi tay hong khô tro ẩm trong lò sưởi. Do sự thay đổi khí hậu vào những buổi sáng và những tối lặng gió, nên sương mù bốc lên cuồn cuộn tựa một dòng sống đục ngầu.

    Một hôm, anh thử làm một cái bẫy để bẫy quạ ở mảnh đất trống phía sau nhà. Anh đặt tên cái bẫy đó là “hy vọng”.

    Kế đó đơn giản lạ lùng. Cái bẫy làm ra nhờ những tính chất đặc biệt của cát. Anh đào một lỗ khá sâu, và ở dưới đáy anh chôn một cái gàu bằng gỗ. Với ba chiếc que cỡ que diêm, anh chống cái nắp nhỏ hơn miệng cái gàu chút xíu. Ở mỗi cái que anh buộc sợi chỉ mảnh. Những sợi chỉ này được luồn qua một lỗ khoét ở giữa cái nắp và nối liền với sợi dây thép ở bên ngoài. Ở đầu sợi dây thép, anh móc một mẩu cá khô làm mồi nhử. Tất cả những thứ đó được vùi kỹ dưới lớp cát mỏng. Đứng ở ngoài, chỉ có thể nhìn thấy miếng mồi trong lòng cái lỗ cát nhỏ bằng chiếc bát. Chừng nào một con quạ mổ vào miếng mồi, mấy cái que sẽ trượt đi, cái nắp sẽ sập xuống, cát tràn vào và con quạ sẽ bị chôn sống. Anh đã thử làm vài ba lần; mọi sự diễn biến rất hoàn hảo. Anh có thể mường tượng thấy hình dáng đáng thương của con quạ bị cát ùa xuống nuốt chửng, thậm chí không có cả thời gian vỗ cánh một lần chót.

    Rồi sau đó anh sẽ viết một bức thư, giấu nó ở chân con quạ. Cố nhiên, hết thảy đều là chuyện may rủi. Thoạt đầu phải tính đến một việc có rất nhiều khả năng xảy ra là, khi anh thả con quạ, nó có thể rơi vào tay bất cứ ai. Anh cũng không bao giờ biết nó sẽ bay về đâu. Thông thường, phạm vi bay của loài quạ hết sức hạn chế. Tệ hại nhất là dân làng sẽ để ý tới một con quạ trong bầy có mang theo một mẩu giấy trắng giấu dưới chân và họ sẽ biết hết toàn bộ mưu kế của anh. Tất cả sự kiên nhẫn chịu đựng của anh rồi sẽ chỉ là con số không tròn trĩnh.

    Kể từ lần anh thất bại trong cuộc chạy trốn, anh trở nên hết sức thận trọng. Anh tự thích nghi với cuộc sống ở dưới hố, tựa hồ đây là một giấc ngủ đông, và anh tập trung mọi cố gắng của mình, để làm cho dân làng lơi là sự cảnh giác của họ. Người ta bảo rằng nếu cứ lặp đi lặp lại mãi một khuôn mẫu thì sẽ mang lại một hình thức gây ấn tượng mạnh mẽ. Nếu anh chịu hòa vào một cuộc sống lặp đi lặp lại buồn tẻ thì có thể đến một lúc nào đó họ sẽ hoàn toàn không có chút ý niệm gì về sự có mặt của anh nữa.

    Còn một yếu tố hữu hiệu khác trong việc lặp đi lặp lại này. Chẳng hạn việc người thiếu phụ đã dốc hết sức mình trong hai tháng vừa rồi, ngày này sang ngày khác, để xâu các hột lại với nhau, tập trung một cách mạnh mẽ đến nỗi khuôn mặt của chị nom như sưng phồng lên. Mũi kim dài của chị như nhảy nhót khi chị xỏ vào những hột kim loại nằm rải rác dưới chiếc hộp làm bằng bìa cứng. Anh ước tính món tiền dành dụm của chị được khoảng hai ngàn yên, đủ để mua trả góp một chiếc đài phát thanh, trong vòng hai tuần nữa.

    Ở cây kim đang nhảy nhót kia có một điều quan trọng, khiến anh có cảm tưởng nó là trung tâm của thế giới: cử chỉ lặp đi lặp lại của chị mang lại màu sắc cho hiện tại và gây một cảm giác thực tế. Người đàn ông, để không chịu thua kém, cũng quyết định tập trung vào một số công việc chân tay hết sức đơn điệu. Nào là quét cát trên trần, nào là sàng gạo, rồi thì rửa bát đĩa - những công việc như vậy đã thực sự trở thành những công việc thường ngày chủ yếu của anh. Thời gian như mây bay gió thoảng, ít ra là trong khi anh làm việc. Anh nghĩ ra việc dựng một cái lều nhỏ bằng nhựa hóa học để che cho hai người khỏi cát lúc họ ngủ, và hấp cá bằng cách vùi nó vào trong cát nóng - những việc ấy khiến thời gian trôi qua có phần dễ chịu hơn.

    Từ ngày trở về, để khỏi nổi giận, anh đã thực sự sống cho qua ngày đoạn tháng, không ngó ngàng gì tới báo chí. Sau một tuần, anh không còn nghĩ đến việc đọc nữa. Và, sau một tháng, anh hầu như quên hẳn rằng trên đời lại có những thứ như báo chí. Có một lần, anh trông thấy bản sao của một bức tranh khắc được gọi là Địa ngục của nỗi cô đơn, và anh cho rằng nó thật kỳ quặc. Trong bức tranh đó, một người đàn ông trôi vật vờ giữa không trung, đôi mắt hắn ta mở to với vẻ hãi hùng, và xung quanh hắn đầy những hồn ma bóng quỷ nửa trong suốt khiến anh gần như chết lặng người. Những người chết mỗi người một vẻ mặt biểu lộ khác nhau, vừa cố xô đẩy nhau, vừa nói liên hồi với người đàn ông kia. Cái “địa ngục cô đơn” này là cái quái gì cơ chứ? Anh tự hỏi. Có lẽ người ta đặt nhầm tên cho nó chăng, dạo ấy anh nghĩ vậy, nhưng bây giờ anh đã hiểu thấu đáo bức tranh ấy. Nỗi cô đơn là một sự khao khát không bao giờ thỏa mãn đối với một ảo ảnh.

    Vì thế, con người cắn móng tay mình, không thể tìm thấy sự hài lòng trong nhịp đập đơn giản của trái tim mình... con người hút thuốc, không thể thỏa mãn với nhịp điệu của khối óc mình... con người có những cơn run rẩy, không thể tìm thấy sự thỏa mãn trong tình dục mà thôi. Hít thở, đi lại, những hợp đồng hoạt động tiêu hóa của ruột, thời gian biểu, các Chủ nhật nối tiếp đến sau bảy ngày một, những kỳ thi sát hạch sau bốn tháng, còn lâu anh mới được bình tâm, tất cả những thứ đó có hiệu lực đẩy anh đến chỗ lặp đi lặp lại chúng hoài. Việc hút thuốc của anh ngày một tăng, và anh đã trải qua những cơn ác mộng hãi hùng, trong giấc mộng ấy anh cùng với một người đàn bà có những móng tay cáu bẩn đang đi tìm một chỗ ẩn nấp để lánh khỏi cặp mắt của người đời, cuối cùng anh nhận thấy mình bắt đầu có triệu chứng nhiễm độc, đột nhiên anh tỉnh giấc giữa một thiên đường chỉ phối bởi một hình ellipse hết sức đơn giản, và những đụn cát gồm những hạt cát có đường kính bằng một phần tám milimét chế ngự.

    Dầu sao chăng nữa anh vẫn cảm thấy một sự hài lòng thanh thản nào đó trong công việc tay chân mà anh làm mỗi ngày và trong cuộc chiến đấu lặp đi lặp lại với cát, sự phản ứng của anh không hoàn toàn là thống dâm. Anh không thấy điều đó có gì lạ, nếu như cách chữa bệnh như vậy là có thực.

    Nhưng vào một buổi sáng, cùng với những vật được phân phát thường xuyên, anh còn được người ta gửi cho một cuốn tạp chí biếm họa. Bản thân cuốn tạp chí ấy chẳng là gì hết. Tờ bìa đã cũ nát và nhem nhuốc những vết tay; ắt hẳn họ đã kiếm được cuốn tạp chí này từ một người bán đồ đồng nát.

    Tuy nhiên, ngoài cái vẻ cũ bẩn của nó, cuốn tạp chí này có thể cho thấy một sự tính toán của dân làng. Điều khiến anh thấy bối rối là anh đã cười lăn lộn lúc xem cuốn tạp chí, anh giáng cả thân thể xuống sàn nhà, và vặn vẹo như thể anh đang lên cơn co giật.

    Bức biêm họa nào cũng hết sức ngu xuẩn. Chúng đều là những bức phác thảo vô nghĩa, thô bỉ, tục tĩu, được vẽ vội vàng, cẩu thả, và giá như có ai hỏi, anh cũng đành chịu không giải thích nổi vì cớ gì mà chúng lại tức cười đến thế. Có một bức nom hết sức ngộ chỉ vì vẻ mặt của một con ngựa bị ngã, chân nó bị gãy dưới sức nặng của một tên võ sĩ nhà nghề to bự cưỡi lên lưng nó. Tại sao anh có thể cười được như vậy khi mà chính anh đang sống trong hoàn cảnh thế này? Thực đáng xấu hổ! Có một giới hạn cho việc anh tự thích nghi với cảnh ngộ hiện tại. Anh đã có ý định coi sự thích nghi này chỉ là những phương tiện chứ không phải là mục đích. Nói về giấc ngủ đông thì nghe cũng xuôi tai, nhưng liệu anh có biến thành con chuột chũi và mất đi mọi ước muốn phơi mặt dưới ánh mặt trời trong những năm tháng còn lại của cuộc đời mình không?

    Khi anh nghĩ về điều đó, anh hiểu rằng tuyệt đối không tài nào biết được khi nào và bằng cách gì, một cơ hội chạy trốn sẽ tới. Chỉ còn cách chấp nhận là làm quen với sự chờ đợi, không có một mục đích nào đặc biệt trong đầu, và khi giấc ngủ đông cuối cùng của anh cũng chấm dứt, anh sẽ bị ánh sáng làm cho lóa mắt, không thể bước ra ngoài nổi. Thiên hạ vẫn bảo là làm một thằng ăn mày trong ba ngày thì suốt đời vẫn là một thằng ăn mày. Rõ ràng một sự mục ruỗng từ bên trong như vậy sẽ tiếp diễn nhanh chóng không sao lường nổi. Anh đang nghĩ về điều đó một cách nghiêm túc, song vào chính cái giờ phút nhớ lại vẻ mặt của con ngựa anh lại bật lên một tiếng cười ngu xuẩn. Dưới ánh đèn, người thiếu phụ vẫn chăm chú như mọi khi trong việc xâu chuỗi hạt, chị ngẩng đầu và nhìn anh cười ngây thơ. Anh không chịu nổi sự dối trá của chính mình, bèn quăng cuốn tạp chí đi rồi bước ra ngoài.

    Một lớp sương mù màu trắng đục dâng lên cuồn cuộn trên bức vách cát. Những khoảng không tối tăm, chấm phá, trên những phần còn lại của đêm tối... những khoảng không lấp lánh tựa sợi dây thép sáng ngời... những khoảng không gian vật vờ với những hạt hơi nước lóng la lóng lánh. Sự kết hợp của bóng tối chứa đầy những hình bóng quái dị, nó khơi dậy trong anh những ảo tưởng vô biên. Anh sẽ không bao giờ chán nhìn những cảnh tượng đó. Mỗi giây phút qua đi với những khám phá mới. Mỗi vật ở kia, những hình ảnh có thực pha trộn với những hình dạng hư ảo mà xưa nay anh chưa hề nhìn thấy.

    Anh quay về khối sương mù bốc cuồn cuộn và bị lôi cuốn theo nó một cách ngoài ý muốn.

    - Thưa ngài, tôi muốn được biết thực chất của việc kiện tụng này. Tôi muốn được biết nguyên nhân bản án của mình. Ngài thấy đấy, bị cáo đang ngồi trước mặt ngài, chờ đợi để được làm vui lòng ngài.

    Rồi một giọng nói anh nhớ đã nghe thấy trước kia đáp lại anh từ trong khối sương mù. Chợt giọng nói ấy nghe ngàn ngạt tựa như truyền qua điện thoại.

    - Trong một trăm người lại có một người, rốt cuộc...

    - Ngài bảo sao?

    - Tôi đang nói cho anh biết rằng ở nước Nhật bệnh tâm thần phân lập chiếm tỷ lệ cao, cứ một trăm người thì có một người mắc bệnh này.

    - Cái tên gì mà...

    - Thói ăn cắp vặt hình như cũng chiếm tỷ lệ một trên một trăm.

    - Ngài đang nói những cái tên quái quỷ gì thế?

    - Nếu có một phần trăm mắc bệnh đồng tính luyến ái giữa đàn ông thì lẽ đương nhiên cũng phải có độ một phần trăm trường hợp có thói đồng dục nữ giữa đàn bà. Một phần trăm cho những kẻ phạm tội cố ý đốt nhà; những kẻ nghiện rượu nặng, một phần trăm; những kẻ mắc chứng hoang tưởng trị đại, một phần trăm; những kẻ đần độn, một phần trăm; những kẻ mắc chứng cuồng dâm, một phần trăm; những kẻ quen thói lường gạt, một phần trăm; đàn bà lãnh cảm, một phần trăm; bọn chuyên khủng bố, một phần trăm; những kẻ hoang tưởng bộ phận, một phần trăm...

    - Tôi mong ngài đừng nói những chuyện vô nghĩa ấy nữa.

    - Được, bình tĩnh nghe ta nói đây. Những người mắc chứng sợ độ cao, nghiện heroin, kẻ ham mê trở thành người hùng, bọn hay nổi cơn cuồng loạn, những quân ham giết người, những kẻ mắc bệnh giang mai, lũ thiểu năng trí tuệ - cứ cho rằng mỗi loại người trên chiếm một phần trăm, tổng cộng sẽ là hai mươi phần trăm. Nếu như anh có thể kể ra được tám mươi trường hợp nữa bất bình thường theo tỷ lệ này - và cố nhiên là anh có thể - ta sẽ có đủ bằng chứng thống kê để chứng minh rằng loài người bất bình thường một trăm phần trăm.

    - Thực là tầm bậy! Sự bất bình thường không thể tồn tại được, nếu không có tiêu chuẩn của sự bình thường!

    - Nào, nào. Ta chỉ cố gắng bào chữa cho anh thôi đấy...

    - Bào chữa cho tôi?

    - Theo ta hình dung, thì chắc chắn là anh sẽ không khăng khăng về tội lỗi của mình.

    - Không, đương nhiên vậy!

    - Vậy ta muốn anh hãy cư xử một cách ngoan ngoãn hơn. Dù cho cảnh ngộ của anh có khác thường đến mấy chăng nữa thì tuyệt nhiên chẳng có lý do gì để lo phiền hết. Người ta không có bổn phận cứu vớt những con chim lạc loài, như anh, người ta cũng không có cả cái quyền phán xét anh nữa.

    - Con chim lạc loài! Tại sao cái trò bắt giữ người bất hợp pháp lỳ lợm này lại biến tôi trở thành một con chim lạc loài mới được chứ?

    - Thôi anh đừng có làm bộ ngây ngô. Ở Nhật Bản, một vùng điển hình cho độ ẩm và sức nóng cao, có tới tám mươi bảy phần trăm sự thiệt hại hàng năm do nước gây ra; sự thiệt hại do cát chuyển động, như trường hợp của anh, có thể lên tới gần một ngàn phần trăm. Thực khôi hài! Cứ như là việc thông qua những đạo luật đặc biệt để chống lại thiệt hại do nước gây ra ở sa mạc Sahara không bằng.

    - Tôi không muốn nói về những đạo luật đặc biệt. Tôi chỉ muốn nói về những nỗi đau khổ mà tôi đã phải chịu đựng. Việc giam giữ người bất hợp pháp là bất hợp pháp, dù việc đó xảy ra ở sa mạc hay ở đâu đó cũng vậy thôi.

    - Ôi, việc giam giữ người bất hợp pháp... Thế nhưng lòng tham của con người là vô hạn độ, chẳng lẽ anh không hiểu điều ấy? Đối với bọn dân quê thì anh là vật sở hữu hết sức có giá trị.

    - Hừ, chuyện vớ vẩn! Đúng ra mà nói, tôi có những lý do khác để tồn tại chứ.

    - Anh có dám chắc là việc chê trách cát thân yêu của anh là đúng không?

    - Sự chê trách?

    - Ta nghe nói trên thế giới có những người, cứ sau một thời gian mười năm lại tính lại giá trị của Pi [1] cho thứ tự thập phân vài trăm. Thôi được ta cứ cho rằng họ có nhiều lý do để tồn tại. Nhưng chính anh đã chuốc lấy phiền toái khi mò đến một chỗ như thế này, vì anh đã chối bỏ cái lý do sinh tồn như vậy.

    - Không, nói thế không đúng. Đến cát cũng có một khuôn mặt hoàn toàn đối lập. Ngài có thể dùng nó để làm khuôn đúc. Và nó còn là một thứ nguyên liệu không thể thiếu được để làm bê tông. Người ta chẳng đang nghiên cứu để lợi dụng cát loại bỏ được sự sinh trưởng dễ dàng của nấm và các loài cỏ dại, từ đó mà phát triển công việc đồng áng là gì? Thậm chí họ còn thí nghiệm việc biến đất thành cát bằng cách dùng enzim phân hủy đất. Ngài không thể nói về cát một cách chung chung như thế.

    - Nào, nào. Cứ như là quy y chính đạo không bằng: Nếu anh thay đổi quan điểm nhiều như vậy, thử hỏi tôi còn biết tin vào cái gì nữa?

    - Tôi không muốn chết như một kẻ ăn mày, có thế thôi!

    - Hừ, cũng thế cả thôi. Con cá sổng bao giờ cũng là con cá to nhất.

    - Đồ chết tiệt. Ngài là ai, hả?

    Nhưng sương mù đã dâng lên và xóa tan giọng nói kia. Thay vào đó là hàng trăm luồng sáng thẳng băng ùa xuống. Đầu óc anh quay cuồng, và một cảm giác kiệt quệ, dâng lên trong cơ thể anh tựa như khói.

    Có tiếng quạ kêu. Sực nhớ đến cái bẫy, anh quyết định đi vòng ra sau nhà xem xét cái bẫy “Hy vọng”. Không có gì chứng tỏ sự thành công, nhưng cũng còn tốt hơn cuốn tạp chí hài hước.

    Miếng mồi vẫn còn nguyên như khi anh đặt bẫy. Mùi cá thối xộc vào mũi anh. Kể từ hôm đặt cái bẫy “Hy vọng” đến nay đã hai tuần trôi qua, chưa có gì xảy ra. Có thể vì một lý do gì đó chăng?

    Anh đã quá tin tưởng vào cấu tạo của cái bẫy. Chỉ cần con quạ mổ vào miếng mồi, là nó bị sa bẫy liền. Anh hoàn toàn bơ vơ lạc lõng vì ở chỗ đặt bẫy đầu tiên, bầy quạ vẫn không thèm để ý tới miếng mồi.

    Có thể có một cái gì đó khiến chúng không hài lòng về “Hy vọng” chăng? Song nhìn từ góc nào cũng vậy, anh vẫn không thấy cái bẫy có gì khả nghi. Giống quạ vốn thận trọng khác thường, bởi vì chúng hay tìm bới thức ăn, mà con nguời lại không cho phép chúng lảng vảng ở nơi mình sinh sống. Bởi vậy, vấn đề bây giờ là xem ai là kẻ kiên nhẫn hơn cả... cho đến khi cả người lẫn quạ đều quen thuộc hoàn toàn với con cá thối trong lỗ. Tính kiên nhẫn tự nó không nhất thiết là sự thất bại. Mà đúng hơn, sự thất bại thực sự bắt đầu khi sự kiên nhẫn bị coi như bại cuộc. Anh đã đặt cho bộ máy kỳ cục này cái tên “Hy vọng” chính vì trong tầm trí anh đã sẵn có ý niệm này. Mũi Hảo Vọng không phải là Gibraltar [2] mà là Cape Town [3].

    Anh chậm rãi lê bước vào nhà. Lại đến giờ đi ngủ rồi.

    ___

    [1] Số Pi (π): có giá trị 3,1416...

    [2] Gibraltar: Thuộc địa của Anh, nằm tại eo biển giữa Tây Ban Nha và châu Phi, nối liền Đại Tây Dương và Địa Trung Hải.

    [3] Hải cảng và thủ đô của Nam Phi.

    CHƯƠNG 29

    Thiếu phụ thấy anh, nàng bèn thổi tắt đèn như vừa chợt nhớ ra, rồi đến ngồi ở một chỗ sáng hơn gần cửa ra vào. Nàng có định làm việc tiếp nữa không? Anh tự hỏi. Bất chợt anh cảm thấy sự phẫn nộ không tài nào kiềm chế nổi. Đang đứng trước mặt nàng, anh hất tung chiếc hộp đựng hột khỏi đầu gối nàng. Những hột đen óng, tựa như hạt giống cây cỏ, bay tung tóe trên nền nhà và lập tức chìm lẫn xuống cát. Nàng sững sờ nhìn anh, nhưng không nói một câu. Người đàn ông đứng ngây mặt. Anh rên rỉ yếu ớt... Một chút nước bọt màu vàng ứa bên mép.

    - Thực vô nghĩa. Em nên bỏ cuộc thì hơn. Tất cả đều vô nghĩa. Chẳng bao lâu nữa, chất độc sẽ thấm vào máu em.

    Người thiếu phụ không nói gì. Chuỗi hạt mà nàng vừa xâu xong khẽ đung đưa giữa các ngón tay, sáng lấp lánh tựa những giọt mật. Thân thể anh hơi run rẩy.

    - Phải, thật vậy. Chẳng bao lâu nữa, việc này sẽ trở thành quá muộn. Một ngày nào đó chúng ta sẽ thấy, bọn dân quê biến mất không còn một mống, và chỉ có chúng ta là những kẻ duy nhất bị bỏ lại. Anh biết điều đó... thực đấy. Chắc chắn việc đó sẽ xảy ra một ngày gần đây. Khi chúng ta nhận ra chúng ta bị phản bội thì đã quá muộn rồi. Những việc mà chúng ta làm cho họ bây lâu nay sẽ chỉ là một trò hề đối với họ mà thôi.

    Đôi mắt người thiếu phụ dán chặt vào chuỗi hạt đang cầm trên tay. Nàng lắc đầu một cách yếu đuối.

    - Họ không thể làm như vậy. Không một ai có thể kiếm sống nổi, một khi người đó ra khỏi đây.

    - Tất cả rồi cũng dẫn đến bước ấy thôi, phải không? Bất cứ ai ở đây cũng không sống được một cuộc đời đáng sống nữa.

    - Nhưng còn cát thì sao?

    - Cát? - Người đàn ông nghiến chặt hai hàm răng, vò đầu, vò tai - Cát thì phỏng ích lợi quái gì kia chứ? Ngoài việc bắt em làm lụng cực nhọc, thử hỏi nó có cho em nổi xu nào không?

    - Có, có chứ. Họ bán cát mà.

    - Người ta bán cát à? Nhưng bán cho ai hàng đống như vậy?

    - Thì bán cho các công ty xây dựng và những nơi tương tự. Họ đem trộn nó với bê-tông.

    - Đừng có đùa! Đem trộn thứ cát này với xi-măng để thành một thứ hổ lốn à? Trong cát có nhiều muối quá. Trước hết như vậy là đi ngược với luật pháp, hay ít ra cũng trái với các quy tắc xây dựng...

    - Tất nhiên rồi, vì họ bán cát một cách bí mật mà. Họ hạ giá còn một nửa giá tiền thôi...

    - Vô lý đến thế là cùng. Dù có bán nửa tiền chăng nữa, làm thế cũng không phải, một khi nhà cửa và đập nước bị sụp đổ tan tành, phải không?

    Thiếu phụ chợt ngắt lời anh bằng cặp mắt như muốn kết tội. Nàng nói giọng lạnh nhạt, nhìn vào ngực anh, thái độ của nàng trở nên hoàn toàn cách biệt.

    - Tại sao chúng ta cứ phải lo lắng về những gì xảy ra cho người khác?

    Anh sửng sốt. Sự thay đổi thực hoàn toàn, như thể một chiếc mặt nạ vừa phủ lên mặt nàng. Dường như qua nàng, khuôn mặt của ngôi làng vừa để lộ ra cho anh thấy. Trước lúc đó, bọn dân quê vẫn được coi như thuộc về phe kẻ hành hình. Hoặc giả họ là giống thảo mộc ăn thịt người một cách vô tri vô giác, hay loài thủy tức háu ăn, và anh đóng vai một nạn nhân đáng thương bất ngờ rơi vào tay họ. Nhưng nếu nhìn nhận từ quan điểm của dân làng thì chính họ mới là những người bị bỏ rơi. Lẽ cố nhiên, không có lý do gì họ lại chịu ơn thế giới bên ngoài. Bởi thế, nếu anh là người gây thiệt hại, họ sẽ không ngần ngại cho anh thấy nanh nọc của họ. Anh chưa bao giờ nghĩ về mối quan hệ giữa anh với dân làng dưới thứ ánh sáng này. Họ cảm thấy bối rối và tức giận cũng là thường tình. Song dù hoàn cảnh có như vậy, và anh cũng công nhận điểm này, thì sự biện bạch của anh cũng bằng bỏ đi.

    - Thôi, em chẳng phải lo âu về người khác làm gì, - Anh vừa nói, vừa cố gắng một cách tuyệt vọng phục hồi lại vị trí của mình - nhưng có một kẻ nào đó đang làm giàu bởi các trò buôn bán lén lút này phải không? Em không việc gì phải biện hộ cho thiên hạ như thế...

    - Ồ, không đâu. Việc mua bán cát đều do nghiệp đoàn làm hết.

    - Anh hiểu. Song dù vậy, với số lượng đầu tư vĩ đại đó...

    - Người nào đủ giàu để có thuyền bè hay bất cứ cái gì đều đã rời khỏi đây từ lâu rồi. Anh và em đã được họ đối xử tử tế... Thực vậy, họ đâu có đểu giả gì với chúng ta. Nếu anh cho rằng em nói dối, cứ bảo họ cho xem sổ sách anh sẽ thấy ngay...

    Người đàn ông đứng như chôn chân một chỗ trong trạng thái bối rối và choáng váng mơ hồ. Vì một nguyên cớ nào đó, anh cảm thấy tinh thần suy sụp khủng khiếp. Tấm bản đồ quân sự của anh, trên đó lực lượng ta và thù tưởng đã được nhận rõ, bây giờ lờ mờ với những màu lạ lẫn vào đó tựa những vết mực không định được. Khi anh nghĩ về điều đó, anh hiểu rằng không cần thiết phải nổi giận với một việc vô nghĩa lý, như cuốn tạp chí biếm họa kia chẳng hạn. Quanh đây chẳng có một ai quan tâm đến việc anh đã cười một cách ngu xuẩn hay không. Cổ họng anh nghẹn lại, và anh bắt đầu thì thầm một cách rời rạc.

    - Ừ, phải... Đúng đây, tất nhiên. Thực ra đấy là chuyện của thiên hạ...

    Rồi sau đó những lời nói mà anh không hề mong đợi tự thốt ra trên môi anh.

    - Đợi dịp nào đó chúng ta sẽ mua một chậu cây cảnh nhé? - Chính anh cũng ngạc nhiên về bản thân mình nhưng vẻ mặt của thiếu phụ còn bối rối hơn, và thế là anh không thể rút lui được nữa - Sao mà buồn thảm đến thế này, chẳng có gì để cho mắt nghỉ ngơi giải trí cả...

    Nàng trả lời bằng một giọng băn khoăn.

    - Chúng mình mua một cây thông về trồng được không anh?

    - Một cây thông à? Anh không thích cây thông. Trồng bất kỳ cây gì cũng còn tốt hơn cây thông - dù là cỏ chăng nữa. Anh thấy có một ít cỏ mọc ở ngoài mũi đất đấy. Em gọi đó là thứ cỏ gì?

    - Em đoán đó là một giống lúa mì hay một thứ cỏ mọc trên các cồn cát thì phải. Nhưng ta trồng một cái cây vẫn hơn phải không anh?

    - Nếu mua cây, hãy chọn một cây thích hay cây phong, với những cành lá nhỏ và lá lớn... một cái cây nào đó mà cành lá có thể lay động trước gió.

    Những chiếc lá lay động... những chùm lá vặn vẹo, và lay động, chúng đang cố gắng một cách vô ích để thoát khỏi sự ràng buộc với cành...

    Hơi thở của anh không hòa nhịp với cảm xúc của anh. Không hiểu sao anh cảm thấy muốn òa lên khóc đến nơi. Anh vụt cúi xuống chỗ những hạt rơi vãi trên nền nhà và bắt đầu sờ soạng trên cát với một cử chỉ vụng về.

    Người đàn bà vội vã đứng dậy.

    - Anh cứ để đấy. Em sẽ tự nhặt lấy. Em dùng cái giần, như thế dễ dàng hơn.

    CHƯƠNG 30

    Một hôm, khi anh đang đứng vừa tiểu tiện vừa ngắm vầng trăng ảm đạm treo lơ lửng trên miệng hố như muốn anh giơ tay ra ôm lấy nó vào lòng, đột nhiên anh cảm thấy ớn lạnh khủng khiếp. Anh tự hỏi mình bị cảm lạnh rồi chăng? Không, cảm giác ớn lạnh này có cái gì lạ lắm. Anh đã nhiều lần trải nghiệm về sự ớn lạnh trước mỗi cơn sốt, nhưng lần này nó lại là một cái gì khác kia. Anh không bị nổi da gà, không cảm thấy giá buốt. Chính lớp tủy trong các lớp xương anh chứ không phải lớp da của anh đang run rẩy. Và tựa như mặt nước gợn sóng, nó từ từ tỏa thành những vòng tròn lan rộng. Một cơn đau âm ỉ và không lúc nào ngớt vang dội khắp xương cốt anh. Tựa như tiếng kêu leng keng của một cái hộp thiếc vang trong gió, cơn đau đó lan khắp cơ thể anh.

    Trong khi anh đứng đó, toàn thân run rẩy, mắt nhìn trăng, thì một loạt những ý nghĩ liên kết lại diễn ra trong đầu anh. Mặt trăng tựa một vết sẹo sần sùi, được che phủ bằng một lớp phấn... một thứ bọt xà phòng khô cứng rẻ tiền... một hộp đựng đồ ăn trưa bằng nhôm xỉn. Rồi khi nhìn gần, nó hiện nguyên hình một cách bất ngờ: một cái đầu lâu trắng hếu - một biểu hiện thông thường của chất độc, những viên thuốc bọt dưới đáy, lọ đựng côn trùng của anh... có vẻ giống nhau lạ lùng giữa sự cấu tạo của bề mặt mặt trăng và của những viên thuốc độc nở hoa. Anh tự hỏi không biết cái lọ đựng côn trùng anh giấu ở bên dưới cái gò chạy quanh nền nhà bằng đất gần lối ra vào có còn ở đó không.

    Tim anh bắt đầu đập loạn xạ, chẳng khác nào một trái bóng bàn. Tại sao anh lại phải nghĩ tới những điều đen tối tới như vậy nhỉ? Một sự liên kết khá buồn giữa các suy nghĩ.

    Và thậm chí nếu anh không nghĩ ra thì ngọn gió tháng Mười cũng mang đi với nó âm thanh uất nghẹn của sự nuối tiếc. Khi anh nhìn lên khoảng tối mờ mờ trên miệng hố, lúc này hiện ra nhàn nhạt dưới ánh trăng, anh trầm ngâm nghĩ có lẽ cái cảm giác héo hơn này của anh chính là do lòng ghen tỵ mà ra.

    Rất có thể đó là sự ghen tỵ đối với tất cả những vật có một hình thể bên ngoài cái hố này: phố xá, xe điện, dấu hiệu chỉ đường tại các ngã tư, quảng cáo bên trên các phòng điện thoại, xác một con mèo, tiệm tạp hóa - nơi có bán thuốc lá. Giống như cát len lỏi vào đục rỗng những bức vách và cột nhà, sự ghen tỵ đục khoét tâm hồn anh, biến anh thành cái nồi rỗng trên bếp lửa. Song nhiệt độ của cái nồi rỗng tăng nhanh. Và rồi chẳng sớm thì muộn cái đó cũng sẽ xảy ra, anh sẽ bỏ cuộc khi không thể chịu nổi sức nóng nữa. Trước hết là vấn đề thời tiết lúc này, trước khi anh có thể nói đến chuyện hy vọng.

    Anh muốn một bầu không khí nhẹ nhàng hơn! Ít ra là bầu không khí tươi mát không trộn lẫn hơi thở của chính anh. Nếu mỗi ngày được một lần dù chỉ trong nửa tiếng đồng hồ thôi, anh được trèo lên miệng hố mà nhìn biển khơi mênh mông kia thì tuyệt vời biết bao. Anh đáng được hưởng cái đó lắm chứ. Việc canh phòng của họ nghiêm ngặt thế kia thì chắc anh không thể trốn thoát được, nhưng nếu căn cứ vào công việc anh đã làm cho họ từ hơn ba tháng nay thì đòi hỏi đó rất hợp lý. Ngay đến một tên tù cũng có quyền mỗi ngày có một khoảng thời gian để tập tành, vận động nữa là.

    - Quả thực anh không sao chịu đựng được nổi nữa rồi! Nếu cứ tiếp diễn cái trò ngày nào cũng phải húc mũi vào cát như thế này suốt năm thì anh phải biến thành dưa muối mất! Anh vẫn tự hỏi liệu họ có cho phép anh dạo quanh đây mỗi ngày ít phút không?

    Người thiếu phụ chỉ mím chặt môi có vẻ như khó chịu lắm. Trông nàng giống như người không biết phải làm gì với một đứa trẻ được nuông chiều vừa đánh mất cái kẹo.

    - Anh sẽ không cho phép họ nói rằng anh không được làm như vậy. - Người đàn ông bỗng nổi cáu. Thậm chí anh nhắc lại chuyện cái thang dây mà đối với anh thực khó nói vì những kỷ niệm ấy rất đáng ghét - Hôm nọ khi anh chạy trốn, chính mắt anh trông thấy cái thang dây. Mấy gia đình cùng dãy với chúng ta hiện có thang dây mắc sẵn cho họ dùng.

    - Vâng... nhưng mà... - Nàng rụt rè nói như có ý xin lỗi - Phần lớn những người đó đã sống ở đây từ mấy đời nay rồi anh ạ.

    - Hừ, ý em muốn nói chúng ta chẳng còn chút hy vọng nào nữa ư?

    Người thiếu phụ cúi đầu với vẻ khuất phục, như một con chó tuyệt vọng. Thậm chí, nếu ngay bây giờ anh nuốt thuốc độc trước mắt nàng có lẽ nàng cũng đành cho anh chết, không nói một lời.

    - Thôi được. Anh sẽ cố dàn xếp với họ xem sao.

    Tuy nhiên, trong thâm tâm anh không hy vọng gì những chuyện dàn xếp như vậy sẽ thành công. Anh đã thường phải chịu bao nỗi thất vọng. Và vì thế khi lão già ngay sau đó trở lại cùng với nhóm kéo thùng và mang cho anh câu trả lời thì anh ngạc nhiên và sững sờ.

    Song sự ngạc nhiên của anh không có chỉ đáng kể so với những gì mà lão già trả lời anh:

    - Được, để xem xem... - Lão già nói rề rà vấp váp, như đang sắp đặt lại những thứ trong đầu - Kể ra, à... không... à... chẳng thể nào thu xếp nổi đâu... Thôi thế này nhé, nếu hai anh chị chịu ra ngoài này... cho tất cả chúng tôi được xem anh chị... và nếu anh chị chịu làm chuyện ấy... cho chúng tôi xem... Hừ, điều mà anh muốn phải nói là khá hợp lý đấy, song tất cả chúng tôi đã quyết định rằng... Ừ... thôi cũng được...

    - Cho các người xem, ý cụ muốn nói gì thế hả?

    - Hà... hà... cả hai anh chị... hãy làm cái gì đó với nhau đi... ý chúng tôi muốn nói như vậy đấy.

    Xung quanh lão già bọn khiêng thùng bỗng phá lên cười man dại. Người đàn ông đứng chết lặng đi, như bị ai bóp nghẹt cổ, song dần dà anh cũng bắt đầu hiểu ra đúng những điều mà bọn kia muốn nói tới. Và anh bắt đầu hiểu rằng anh đã hiểu ra. Một khi anh đã nhận thức thấu đáo, lời đề nghị của họ không có gì đặc biệt làm anh kinh ngạc nữa.

    Một luồng ánh sáng lóa mắt quét bên chân anh như một con chim bằng vàng. Như thể đó là một dấu hiệu, bảy hay tám tia sáng chiếu vào đĩa ánh sáng đó và bắt đầu quét vòng quanh đáy hố. Bị áp đảo trước sự cuồng nhiệt nóng bỏng, nhầy nhụa của bọn đàn ông trên miệng hố, anh hầu như bị lôi cuốn vào cơn điên khùng của họ trước khi anh có thể cưỡng lại.

    Anh từ từ quay về phía người thiếu phụ. Mới lúc nãy nàng còn đứng đó, tay cầm xẻng mà giờ đã biến đâu mất. Nàng bỏ trốn vào nhà rồi chăng? Anh ngó vào cửa và gọi nàng.

    - Chúng mình sẽ làm gì đây?

    Giọng nói nghẹn ngào của người đàn bà vọng ra ngay phía sau bức vách:

    - Mặc xác họ!

    - Nhưng anh muốn ra ngoài kia. Thực tình anh cũng muốn thế...

    - Làm sao anh lại có thể...!

    - Em chẳng nên coi chuyện đó quan trọng đến vậy.

    - Anh có loạn óc không đấy? - Bỗng người thiếu phụ thở hổn hển - Chắc anh bị loạn óc rồi. Anh đã mất hết mọi ý thức rồi. Không đời nào tôi có thể làm một việc như vậy. Tôi không phải là một đứa cuồng dâm.

    Có thực như vậy không? Anh tự hỏi lòng mình. Anh điên rồi sao? Anh đã định rút lui trước cơn giận của người đàn bà, nhưng một nỗi trống trải đồi trụy trải rộng trong anh. Anh đã từng giẫm đạp lên những chuyện như thế nhiều lần rồi... nếu bây giờ xuất đầu lộ diện trước bọn kia thì có gì là khác? Nếu có gì không phải về phía những người bị nhìn thì cũng có điều không phải tương tự về phía những người đang nhìn chứ. Không còn sự cần thiết phân biệt giữa người quan sát và kẻ bị quan sát. Có thể có một sự khác biệt nào đó giữa họ, song nghi lễ nhỏ mọn này đủ để xóa nhòa sự cách biệt đó. Và chỉ cần nghĩ đến cái phần thưởng mà anh sắp đạt được... mặt đất nơi mà anh có thể đi dạo tùy thích. Anh muốn hít một hơi thật dài ở bên ngoài vũng ao tù này!

    Cảm biết được chỗ người đàn bà đang nấp, bất ngờ anh nhào lên người nàng. Tiếng kêu la của nàng và âm thanh của hai người lúc đang vật lộn nhau đạp vào bức tường cát khiến bọn trên miệng hố bị kích động và trở nên cuồng nhiệt như những con vật. Tiếng huýt sáo, tiếng vỗ tay... những tiếng la hét cuồng loạn... Số người xem ngày càng đông và giờ đây lại có thêm phụ nữ trong bọn đàn ông. Và số đèn pha chiếu xuống lối cửa ra vào đã tăng lên ít nhất là ba lần!

    Anh đã thành công, có lẽ vì anh đã đột ngột tấn công nàng. Dù sao khi đã nắm chặt cổ áo nàng như thế này là anh đã có thể kéo được nàng ra phía ngoài. Nàng nặng thật. Ánh đèn bao quanh ba phía miệng hố trông như những đốm lửa mừng một buổi dạ hội. Mặc dù không đến nỗi nóng lắm, nhưng mồ hôi vã ra ở hai nách anh, và tóc anh ướt đẫm như bị ai giội nước lên vậy. Tiếng reo hò của bọn đứng xem vang dội, anh cảm thấy đêm tối dường như đang ngự trị trong anh với đôi cánh khổng lồ đen ngòm. Anh có thể cảm thấy bọn dân làng đang nín thở nhìn xuống đáy hố, rõ ràng đến mức như họ là chính anh vậy. Họ là một phần của anh, nước bọt ứa ra ở miệng họ chính là nỗi thèm muốn của anh. Trong tâm trí anh, anh là đại diện cho kẻ đao phủ hơn là nạn nhân.

    Dải rút quần của nàng đứt đánh phụt một cách không ngờ. Trời tối, những ngón tay run rẩy của anh dường như hóa ra vụng dại gấp đôi lúc thường. Cuối cùng anh xé toang được cái quần ra, túm lấy mông nàng bằng cả hai tay và trườn người xuống bên dưới nàng, nhưng ngay lập tức nàng vặn người và thoát ra được. Anh lăn mạnh trên cát khi cố túm lấy nàng, nhưng một lần nữa anh lại bị đẩy lui với sự kháng cự mãnh liệt. Anh tóm lấy nàng với vẻ hung bạo, năn nỉ:

    - Làm ơn tí nào. Làm ơn tí nào! Dù sao thì anh cũng không thể làm gì nổi... ta chỉ giả vờ thôi mà...

    Tuy thế anh cũng không cần phải giữ chặt lấy nàng nữa. Anh nghe có tiếng vải bị xé toạc, và đúng lúc đó, anh bị nàng dùng đầu vai húc cho một cái nên thân vào bụng, một cái húc gồm cả sức nặng và cơn giận dữ của thân thể nàng. Anh khuỵu đầu gối, người gập đôi lại. Người đàn bà tỳ trên người anh, dùng nắm tay đấm liên tiếp vào mặt anh. Mới đầu cử động của nàng có vẻ chậm, nhưng ở mỗi cú đấm như có tẩm muối nên rất mạnh. Máu từ mũi anh chảy ròng ròng. Cát bám vào máu; mặt anh trở thành một ụ cát.

    Sự kích động cuồng loạn phía trên bức vách cát xẹp xuống nhanh như một cái ô bị gãy nan. Mặc dù họ cố hòa những âm thanh bất bình, cười cợt, thúc giục làm một, nhưng họ không còn hăng như trước nữa. Một người nào đó tỏ vẻ phản đối anh, nhưng anh lại được người khác tán thành ngay tức khắc. Sự kết thúc cũng đột ngột như lúc bắt đầu. Có tiếng thúc giục bọn đàn ông trở lại làm việc từ xa, và cái ánh đèn biến đâu mất như thể chúng bị biến vào lòng đất. Chỉ có ngọn gió bấc ảm đạm là còn sót lại, thổi tan những dấu vết cuồng nhiệt cuối cùng.

    Song người đàn ông bại trận và dính đầy cát, mơ hồ nghĩ rằng mọi sự rồi cũng trôi qua như anh dự đoán. Ý nghĩ đó nằm trong một góc ý thức anh, như một mảnh đồ lót đẫm nước, nơi chỉ có tiếng đập của trái tim anh là nghe rõ một cách đau đớn. Đôi cánh tay của người đàn bà nóng như lửa đặt bên dưới nách anh, và mùi người nàng bốc lên mũi anh. Anh phó mặc anh trong tay nàng như một hòn đá bằng phẳng, nhẵn thín phó mặc cho dòng sông. Dường như cái còn sót lại trong anh đã hóa thành một chất lỏng và hòa tan trong thân thể nàng.

    CHƯƠNG 31

    Những tuần lễ nhàm chán đơn điệu chỉ toàn những cát và đêm trôi qua.

    “Hy vọng” vẫn như trước, bị lũ quạ không thèm đếm xỉa đến. Và ngay cả miếng mồi bằng cá cũng biến dạng. Mặc dù bị lũ quạ sao nhãng, nhưng miếng mồi lại không bị vi khuẩn bỏ quên. Một buổi sáng, khi chạm vào cán của cái que, anh chỉ thấy còn sót lại mẩu da; con cá đã biến thành một cục bùn nhão đen. Trong khi thay mồi, anh quyết định nhân thể xem lại cái máy kỳ cục này. Anh giật bắn mình, khi vừa bới cát và mở chiếc nắp lên. Nước đã đọng dưới đáy chiếc gàu. Tuy chỉ có khoảng sáu, bảy phân nước, nhưng trong hơn thứ nước lọc bằng cái màng kim khí vẫn được cung cấp cho hai người mỗi ngày. Gần đây có mưa thì phải; anh thầm hỏi. Không. Dễ tới nửa tháng nay trời không mưa. Nếu đúng như vậy, thì liệu có phải chỗ nước mưa này còn đọng lại từ nửa tháng trước không? Anh chỉ muốn tin như vậy nhưng điều khiến anh thắc mắc là anh biết chắc gàu bị rò. Và khi anh nhấc chiếc gàu lên, đúng như anh chờ đợi, nước từ dưới đáy gàu bắt đầu nhỏ xuống. Ở độ sâu như thế này không thể có suối ngầm, và anh bắt buộc phải công nhận rằng chỗ nước vừa thoát ra vẫn thường xuyên từ một chỗ nào đó chảy tới, ít ra, về mặt lý thuyết, thì phải như thế. Nhưng nguồn nước bổ sung này chảy ra từ chỗ nào giữa một vùng cát khô cháy như thế này?

    Nỗi kích động trong anh mỗi lúc một tăng khiến anh khó lòng kiềm chế nổi. Anh chỉ có thể nghĩ đến một câu trả lời duy nhất. Đó là tác động mao dẫn của cát. Bởi vì lớp cát bên trên có một sức nóng đặc biệt cao, do vậy nó rất khô, nhưng khi ta đào sâu xuống tí chút thì lớp cát bên dưới luôn ẩm ướt. Ắt hẳn sự bốc hơi bề mặt có tác dụng như là một chiếc bơm, hút nước bên dưới lên. Khi anh nghĩ ra điều đó, mọi việc đều được giải thích dễ dàng: Một khối lượng khổng lồ sương mù bốc lên từ các đụn cát mỗi buổi sáng và tối, sự ẩm ướt khác thường bám vào các cột nhà và vách tường đã làm gỗ mục nát. Tóm lại, sự khô khan của cát không chỉ đơn thuần do thiếu nước, mà hơn thế, hình như do ở sự rút nước gây ra, bởi số lượng nước do cát hút vào không bao giờ phù hợp với tốc độ của hiện tượng bốc hơi. Nói cách khác, nước được bổ sung thường xuyên. Nhưng thứ nước này luân chuyển trong các loại đất bình thường với một tốc độ khó tưởng tượng được. Và hiện tượng đó xảy ra khi “Hy vọng” cắt đứt sự luân chuyển của nước ở một chỗ nào đó. Có lẽ do vị trí của cái gàu và khe hở xung quanh cái nắp mà số lượng nước tràn vào trong gàu không bị bốc hơi. Anh chưa thể giải thích một cách chính xác việc đặt cái bẫy và mối liên quan giữa nó với các yếu tố khác, nhưng nhờ sự nghiên cứu anh có thể lặp lại một cách chắc chắn thí nghiệm này. Hơn nữa, tại sao lại không dựa vào đó mà tạo nên một chỗ tích trữ nước có hiệu quả hơn.

    Nếu anh thành công trong thí nghiệm này, anh sẽ không chịu nhượng bộ bọn dân làng một nước nào nữa, nếu như họ cắt việc cung cấp nước cho anh. Nhưng điều quan trọng hơn cả, anh đã phát hiện ra cát là một cái bơm vĩ đại. Tựa như anh đang ngồi trên một cái máy hút nước vậy. Anh ngồi xuống một lát, điều hòa lại nhịp thở của mình để làm dịu nhịp đập điên cuồng của con tim. Dĩ nhiên, anh chưa cần phải thổ lộ với một người nào về điều đó. Đây có thể là quân át chủ bài của anh trong trường hợp cấp bách.

    Anh không thể nén được tiếng cười tự nhiên đang dâng lên. Dù cho anh có im lặng không nói cho ai biết về chiếc bẫy “Hy vọng”, song khó mà che giấu nổi niềm vui điên cuồng trong lòng. Anh bất chợt kêu lên và vòng tay ôm lấy ngang hông người thiếu phụ từ phía sau, khi nàng đang dọn giường chiếu. Và khi nàng tìm cách lẩn tránh, anh gieo lưng xuống giường, vừa nằm đạp chân vừa cười khanh khách. Tựa hồ bụng anh đang bị kích thích bởi một quả bóng bằng giấy chứa đầy một thứ hơi nhẹ đặc biệt. Anh cảm thấy bàn tay anh úp trên mặt đang trôi bập bềnh giữa không khí.

    Người thiếu phụ cười một cách miễn cưỡng, có lẽ chỉ vì muốn chiều lòng anh. Anh đang nghĩ tới mạng lưới các mạch nước khổng lồ đang bò ngang dọc dưới cát, nhưng trái lại, người thiếu phụ kia chắc đang cho rằng các hành động của anh chỉ đơn thuần là những diễn biến có tính cách tình dục. Cũng được thôi. Chỉ có ai đắm tàu vừa thoát khỏi chết đuối mới có thể hiểu được cái tâm lý của kẻ bật cười vì giờ đây hắn ta có thể thở được.

    Sự thực là anh vẫn còn ở dưới đáy hố như bấy nay, nhưng anh cảm thấy mình đã trèo lên tới đỉnh một ngọn tháp, cao ngất. Có lẽ thế giới này đã đảo lộn, những nơi cao thấp không còn nguyên như trước nữa. Dù sao thì anh cũng đã phát hiện ra nước trong cát... Chừng nào anh còn có phương kế ứng phó thì bọn dân làng còn không thể quấy rầy anh dễ dàng như thế. Dù chúng có ngừng cung cấp cho anh lâu bao nhiêu chăng nữa, anh vẫn có thể chịu đựng lâu dài được. Một lần nữa anh lại phá lên cười khi nghĩ đến tiếng la ó của bọn dân làng. Anh vẫn còn ở trong hố mà thấy như mình đã thoát hẳn ra ngoài. Quay nhìn bốn phía anh có thể thấy hết cảnh tượng này. Người ta không thể đánh giá được một bức khảm nếu không ngắm nó từ xa. Nếu nhìn gần tác phẩm đó, ta sẽ bị lạc vào những chỉ tiết vụn vặt. Ta tách rời khỏi một chỉ tiết chỉ cốt để bắt lấy một chỉ tiết khác mà thôi. Có lẽ từ bao lâu nay anh mới chỉ nhìn thấy những hạt cát chứ chưa phải cát... Sự thay đổi của cát phù hợp với sự đổi thay trong chính con người anh. Có lẽ cùng với nguồn nước trong cát, anh đã tìm thấy con người mới của mình.

    Cũng từ đó, việc làm cái bẫy nước đã choán gần hết công việc hàng ngày của anh. Các hình vẽ và biểu đồ đã chất thành từng đống - chỗ chôn chiếc gàu, hình dáng chiếc gàu, mối quan hệ giữa các giờ trong ngày với tỷ lệ tích tụ của nước, ảnh hưởng của nhiệt độ và áp suất lên hiệu năng của các thiết bị. Đối với người thiếu phụ thì việc làm ấy quả là khó hiểu. Nàng không rõ vì cớ gì mà anh lại say mê những thứ tầm thường như cái bẫy quạ. Nàng nhận ra rằng không có người đàn ông nào sống mà lại không ham thích một cái gì, và nếu anh bằng lòng với cái trò đó thì nó cũng hợp với ý nàng. Hơn nữa, nàng không hiểu tại sao anh lại bắt đầu tỏ ra quan tâm hơn tới công việc thủ công của nàng. Đây không phải là một cảm giác khó chịu. Hãy tạm gác chuyện cái bẫy quạ sang một bên, nàng vẫn còn lợi lộc một cách đáng kể nữa. Nhưng anh cũng có những lý do và động cơ riêng của mình. Công việc của anh về cái thiết bị này lại rắc rối một cách không ngờ, vì cần phải hợp nhất nhiều yếu tố lại với nhau. Nếu muốn có những số liệu chính xác hơn, anh cần có một chiếc đài phát thanh để theo dõi các thông báo thời tiết. Chiếc đài phát thanh đã trở thành một vật cần chung cho cả hai người.

    Vào đầu tháng Mười một, anh đã ghi được dung tích nước hàng ngày vào khoảng một gallon [1], nhưng rồi sau đó mỗi ngày lượng nước lại rút đi dần. Có lẽ do nhiệt độ, và rõ ràng anh phải đợi đến mùa xuân để thử lại toàn bộ thí nghiệm. Cuối cùng, mùa đông dài đằng đẵng và khắc nghiệt cũng đến, những miếng băng bị thổi xuống lẫn với cát. Trong thời gian này, anh quyết định giúp người thiếu phụ một tay để mua được một chiếc đài phát thanh cho ra hồn. Có cái may là dưới lòng hố khuất gió, thế nhưng ánh mặt trời gay gắt chiếu xuống suốt ngày nhiều khi không thể chịu đựng nổi. Thậm chí vào những ngày cát đông cứng lại, số lượng cát do gió lùa tới vẫn không ngưng giảm, và việc xúc cát vẫn không được hoãn lại. Có nhiều lúc những vết nứt trên các ngón tay anh toác ra và rơm rớm máu.

    Chẳng mấy chốc đông qua xuân tới. Vào đầu tháng Ba hai người mua được chiếc đài phát thanh. Họ dựng một cần antenna cao trên mái lều. Người thiếu phụ sung sướng luôn mồm hỏi những điều mà nàng ngạc nhiên, tay vặn cái núm hết sang phải rồi sang trái dễ tới nửa ngày trời. Cuối tháng đó nàng nhận ra mình đã mang thai. Rồi thêm hai tháng trôi qua. Những con chim trắng rập rờn tung cánh từ đông sang tây suốt ba ngày liền, sang ngày sau đó phần dưới của thiếu phụ ra huyết và nàng kêu đau khủng khiếp. Một người trong làng được coi như thầy thuốc thú y trong đám họ hàng nhà nàng, chẩn đoán đây là một trường hợp chửa ngoài dạ con, và mọi người quyết định dùng chiếc xe tải ba bánh chở nàng tới bệnh viện trong thành phố. Người đàn ông ngồi với nàng khi họ đánh xe tới, anh để nàng nắm lấy bàn tay mình, trong khi anh cùng với người kia luôn tay xoa bụng cho nàng.

    Cuối cùng chiếc xe tải ba bánh dừng lại trên miệng hố. Lần đầu tiên sau nửa năm trường, một chiếc thang dây được dòng xuống, và người đàn bà quấn trong mấy chiếc chăn như một cái kén, được kéo lên bằng dây thừng. Nàng ngoái nhìn anh đầy vẻ cầu khẩn với đôi mắt hầu như nhòa đi vì lệ cho đến khi không còn nhìn thấy hình bóng anh nữa. Người đàn ông ngoảnh nhìn đi nơi khác, tựa hồ anh không hề trông thấy nàng.

    Mặc dù nàng đã được chở đi, nhưng chiếc thang dây vẫn còn nguyên chỗ cũ. Anh lưỡng lự với tay ra mân mê nó bằng mấy đầu ngón tay. Sau khi tin chắc rằng nó không biến mất nữa anh mới chậm rãi trèo lên. Bầu trời có màu vàng xỉn. Anh cảm thấy chân tay mình nặng trĩu như thế chân anh vừa mới ra khỏi mặt nước. Đây chính là chiếc thang dây mà anh hằng mong đợi bây lâu.

    Gió như muốn giật lấy hơi thở từ miệng anh. Sau khi đã đi vòng quanh miệng hố, anh trèo lên một nơi có thể nhìn thấy biển cả. Mặt biển cũng nhuốm một màu vàng nhơ nhớp. Anh hít một hơi thật sâu, nhưng không khí làm họng anh thêm bỏng rát, và nó không có cái vị như anh vẫn mong đợi. Anh ngoái lại phía sau. Một đám cát từ ngoài rìa làng đang cuồn cuộn bốc lên. Đó là chiếc xe tải ba bánh chở người thiếu phụ nọ chăng, anh thầm nhủ. Ồ, phải... có lẽ anh nên nói cho nàng nghe về ý nghĩa thực của cái bẫy.

    Có một vật gì di động dưới đáy hố. Thì ra đó là chiếc bóng của chính anh. Chiếc bóng ấy đứng gần sát ngay chiếc bẫy nước. Một phần của cái khung máy đã bị rời ra. Có lẽ ai đó đã vô tình giẫm phải nó khi họ đến chở người đàn bà đi. Anh vội lần theo thang dây xuống sửa lại cái bẫy. Đúng như dự đoán của anh, nước đã dâng lên tới vạch thứ tư. Sự hư hại không có gì đáng kể. Trong lều, từ chiếc đài phát thanh, có tiếng ai đang hát bằng một giọng ồ ồ. Anh cố nén tiếng thổn thức dường như sắp bật ra; anh thọc cả hai bàn tay vào cái gàu gỗ. Nước lạnh buốt. Anh quỳ xuống và cứ trơ trơ như vậy mãi, hai bàn tay vẫn nhúng trong nước.

    Chẳng cần phải vội vã trong việc thoát thân. Trên chiếc vé khứ hồi mà anh đang cầm trên tay lúc này, chỗ để điền nơi đến và thời gian khởi hành vẫn còn bỏ trống để anh tự tay viết vào như ý anh muốn. Hơn thế, anh hiểu rằng anh đang nung nấu một nỗi khát khao được nói với một người nào đó về cái bẫy nước. Và nếu anh muốn nói về nó, thì chẳng có thính giả nào tốt hơn bọn dân làng kia. Anh muốn chấm dứt bằng cách nói với một người nào đó về nó - nếu không phải hôm nay, thì ngày mai vậy.

    Anh có thể hoãn cuộc chạy trốn của mình lại một ngày nào đó sau này cũng chẳng sao.

    THÔNG BÁO TIN NGƯỜI MẤT TÍCH

    Tên người: Niki Jumpei

    Ngày sinh: 07/03/1924

    Theo các sự kiện ghi trong đơn khai báo về người con mất tích do bà Niki Shino (người mẹ) đệ trình, mọi sự thông báo về sự sống còn của người mất tích phải nộp cho tòa án vào ngày 21/09/1962. Trong trường hợp không có tin tức gì thêm, đương sự kể trên sẽ được tuyên bố mất tích. Bất cứ ai biết tin tức gì về người này, yêu cầu báo ngay cho tòa biết theo thời hạn kể trên.

    Ngày 18/02/1962

    Tòa án Nội vụ

    QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

    Người khai: Niki Shino

    Người mất tích: Niki Jumpei

    Ngày sinh: 07/03/1924

    Việc công bố về người mất tích nói ở trên, và các thủ tục thông báo trước công chúng đã được thực hiện đầy đủ, và do không có xác minh nào về sự sống cũng như sự chết của đương sự kể từ ngày 18/08/1955, đến nay đã được bảy năm, đã được công nhận, tòa án tuyên bố như sau:

    QUYẾT ĐỊNH

    Niki Jumpei được tuyên bố mất tích kể từ nay.

    Ngày 05/10/1962

    Tòa án Nội vụ

    Chữ ký của Chánh án

    ___

    [1] Đơn vị đo lường chất lỏng, bằng 4,54 lít ở Anh và bằng 3,78 lít ở Mỹ.

    HẾT

    Nguồn: Người đàn bà trong cồn cát. Tiểu thuyết của Kobo Abe. Bản tiếng Việt của Nguyễn Tuấn Khanh.

    Mục lục: 1 2 3 4 5 6

    Bài viết liên quan

  • Nam Đế Vạn Xuân
    • Nam Đế Vạn Xuân

      Với hơn 500 trang, 15 hồi gay cấn, sinh động trong từng câu thoại của các nhân vật lịch sử, Tiểu thuyết Lịch sử Nam Đế Vạn Xuân nằm trong bộ Tiểu thuyết dài tập Vương triều tiền Lý của Nhà văn Phùng Văn Khai. Nam Đế Vạn Xuân tái hiện một cách sinh động lịch sử nước nhà xoay quanh triều đại của nhà nước Vạn Xuân (544-602) giúp chúng ta hiểu và tự hào hơn về lịch sử đánh giặc hào hùng của dân tộc. Với bộ nhân vật lịch sử đồ sộ của cả ta lẫn địch như: Lý Nam Đế, Tinh Thiều, Phạm Tu, Triệu Túc, Triệu Quang Phục, Phùng Thanh Hòa… hay Lương Vũ Đế, Vũ lâm hầu Tiêu Tư, Dương Phiêu, Lý Tắc… tạo nên rất nhiều tình tiết móc ngoặc, những cuộc đấu trí gay cấn hay những lời thoại sinh động của từng nhân vật. Nam Đế Vạn Xuân như một con tàu thời gian đưa ta ngược trở về từng quãng của lịch sử cách đây gần 1500 năm từ khi Lý Bí tu tập tại chùa Cổ Pháp đến thời điểm làm Giám quân ở Đức Châu và cuối cùng là đuổi giặc Lương lên ngôi tại điện Vạn Thọ. Đó cũng là lần đầu tiên Việt Nam có hoàng đế và niên hiệu Thiên Đức là niên hiệu riêng đầu tiên để chứng tỏ nước ta đã giành lại độc lập từ tay Trung Quốc.

    Tìm kiếm

    Lượt truy cập

    • Tổng truy cập57,783,256

    Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

       

      Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

      *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

    Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

      WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

      Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

      The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

      Enjoy life, enjoy Arita experience!