Tìm kiếm
Lượt truy cập
- Tổng truy cập57,783,245
Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam
Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.
*Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...
Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.
WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)
Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.
The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.
Enjoy life, enjoy Arita experience!
Đọc nhiều nhất
- Phạm Hổ - Thơ viết cho nhi đồng
- Người của giang hồ (5): Lâm Chín ngón
- Thuật quan sát người (4)
- Người của giang hồ (11): Hải bánh
- Người của giang hồ (8): Huỳnh Tỳ
- Thuật quan sát người (2)
- Hoàng hôn của những thần tượng
- Vài nét về tục Cúng Mụ, đầy tháng, thôi nôi
- Vài tư liệu về Tục thờ Thánh Mẫu
- Chùm thơ về Tây Nguyên
Tiểu thuyết
Lời người dịch
Trong khi Haruki Murakami và Banana Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe (1935 - 2007), tác giả đạt Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998, có viết: “Lớp nhà văn này đã tích lũy trong mình cảm nghĩ về thực hạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”.
Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro, v.v., ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hóa đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941, Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đây Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhẩt các kỹ thuật của chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist.
Ngay từ năm 1943, Kobo Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami, tác giả Rừng Na Uy, viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách. Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ của ông bao gồm Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng của Kafka càng rõ rệt trong hai tác phẩm Kabe (Bức tường) và S. Karuma Shino Hanzai (Tội lỗi của S. Karuma) sáng tác vào năm 1951. Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hóa thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh ta bị tòa án lôi ra phán xử. Năm 1947, Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chi thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết, Owarishi Michi No Shirube Ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi Đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của Đảng Cộng sản Nhật Bản.
Những tác phẩm mang tính trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, Aai Mayu (Cái kén đỏ, 1950), Kabe (1951) và S. Karuma Shino Hanzai (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn F. Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiếu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant-garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không thực tế, và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau đây của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Dai - Yon Kampyoki (1959), Moetsukita Chizu (Tấm bản đồ rách, 1967), Mikkai (1977) và Hako Otoko (Người đàn ông trong chiếc hộp, 1974).
Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Women in the Dunes (Người đàn bà trong cồn cát, 1962) và The Face of Another (Khuôn mặt người khác, 1964). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hóa, vong ngã trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã bị ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muốn loài, nhưng tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài, không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hóa thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thế chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thế thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.
Ở Người đàn bà trong cồn cát, người đọc khó mà phân định được thực hư, người nào là kẻ chạy trốn, người nào là kẻ lùng bắt, ai biết đâu là ranh giới giữa hư ảo và hiện thực. Kobo Abe đã giải thích những vấn đề tâm sinh lý, ý thức và tiềm thức... để cố gắng truyền đạt đến người đọc một cách cụ thế những hiện tượng có thực ở vùng sâu kín trong hay dưới tầng ý thức. Ông chú trọng đến ảnh hưởng của tiềm thức và vô thức đối với hành vi của con người.
Kobo Abe đã sử dụng mọi dạng cảm xúc của con người, từ niềm tự hào và nỗi sợ hãi tới những khát khao tình dục và cả nỗi thất bại ê chề - tất cả, tất cả đều dồn vào nhân vật chính trong câu chuyện (Niki Jumpei), rồi thì qua đó mặc cho bạn đọc tiến hành một sự tự nhận thức (self-awareness) về sự phi lý của thân phận con người. [1]
Tác phẩm Người đàn bà trong cồn cát ngay lập tức đã cuốn hút đạo diễn điện ảnh Teshigahara Huoshi, cuốn phim của ông dựa trên tác phẩm kể trên đã giành được thành công to lớn vào năm 1963. Tác phẩm điện ảnh này đã giành Giải thưởng Đặc biệt tại Liên hoan Phim Cannes. Diễn viên Kyoko Kishida, người khởi nghiệp điện ảnh qua vai thiếu phụ trẻ trong tác phẩm này, sau đó đã trở nên nổi tiếng trong phim Moomin và một số phim khác. Đạo diễn Teshigahara Huoshi còn cộng tác với Kobo Abe để dựng phim cho hai tác phẩm The Pitfall (Cạm bẫy khó lường, 1962) và The Face of Another (Khuôn mặt người khác, 1966).
Abe còn sáng tác một số vở kịch và điều hành một công ty biểu diễn do ông thành lập ở Tokyo. Các chủ đề về trạng thái cô độc và bị xa lánh, ghét bỏ trong các vở kịch như Friends (1967) và The Suitcase (1973) của ông được diễn trên sân khâu có một cái gì đó rất gần gũi với các tác phẩm của Samuel Beckett và Harold Pinter. Sau khi nhà văn danh tiếng Yukio Mishima qua đời, Abe được xem như nhà soạn kịch chủ chốt ở Nhật vào những năm 1970. Nhà hát của ông, còn có tên Abe Kobo Studio, được mời lưu diễn tại New York City vào năm 1979. Abe mất vì bệnh tim ngày 22 tháng Giêng năm 1993, giữa lúc đang viết tiểu thuyết cuối cùng The Flying Man (Người bay), tác phẩm vừa mới xuất bản đã ngay lập tức được truy tặng giải thưởng trong năm 1993.
Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX.
Hà Nội, Mùa hạ 2009
__
[1] J. Thomas Rimes trong A reader’s guide to Japanese literature, 1999.
PHẦN I
CHƯƠNG 1. KHÔNG CÓ HÌNH PHẠT ĐE DỌA, ẮT CHẲNG CÒN HỨNG THÚ TRONG LÚC CHẠY TRỐN
Vào một ngày tháng Tám, một người đàn ông biến mất. Anh ta đi về phía bờ biển, cách thành phố độ nửa ngày xe lửa nhân một ngày nghỉ, và từ đó không ai hay biết gì về anh ta nữa. Cả cuộc điều tra của cảnh sát lẫn các mục nhắn tin trên báo đều tỏ ra vô hiệu.
Những vụ người mất tích thực ra cũng chẳng hiếm. Theo các bảng thống kê, người ta được biết mỗi năm có tới hàng trăm người biến đâu mất. Hơn nửa, tỷ lệ những người tìm thấy được nhỏ nhoi một cách không ngờ. Những vụ giết người hay tai nạn thường vấn đề lại chút ít dấu vết, và nguyên nhân của các vụ bắt cóc thường vẫn được phát hiện. Tuy nhiên nếu trường hợp cá biệt này không xảy ra do chủ mưu, hoặc những động lực tương tự - và điều này lại đặc biệt hay xảy ra trong trường hợp những người bị mất tích - thì việc tìm manh mối quả thực là nan giải. Chẳng hạn nhiều vụ mất tích có thể đã được miêu tả như là những cuộc trốn tránh đơn thuần.
Trường hợp của người đàn ông này cũng vậy, các đầu mối chẳng có chi đáng kể. Dù có biết chỗ anh ta thường hay đến chăng nữa, nhưng không có tin đồn nào ở vùng đó về một tử thi đã được tìm thấy. Xét về bản chất của sự việc, cũng khó chấp nhận được rằng công việc của anh ta có liên quan đến một hoạt động mờ ám nào đó để đến nỗi bị bắt cóc. Cách ăn ở bình thường của anh ta đã không để lại một mảy may dấu vết nào tỏ ra anh ta dự định bỏ đi biệt tăm.
Thoạt tiên, theo lẽ thường tình ai cũng nghĩ là có một người đàn bà dính dáng đến vụ này. Nhưng vợ anh ta, hay ít ra là người phụ nữ mà anh ta đang chung sống, cho biết mục đích cuộc hành trình của anh là để sưu tập các mẫu côn trùng. Cảnh sát hình sự và các bạn đồng nghiệp của anh thoáng cảm thấy thất vọng. Khó chấp nhận được là anh đã dùng chiếc lọ đựng côn trùng và chiếc vợt để che mắt mọi người mà trốn đi với một người con gái. Thế rồi một người làm công ở ga xe lửa tại S... nhớ lại rằng có một người đàn ông đã xuống tàu. Người ấy có dáng dấp của một nhà leo núi, vai đeo bình nước và chiếc hộp gỗ mà ông đoán là hộp đựng đồ vẽ. Người làm công đó còn cho hay người đàn ông đi một mình, hoàn toàn chỉ có một mình, bởi thế sự ước đoán về người con gái là không có cơ sở.
Giả thiết người đàn ông ấy chán đời nên đã tự tử cũng được nếu ra. Một trong số các đồng nghiệp của người đàn ông, vốn là nhà nghiên cứu tâm lý nghiệp dư đã đưa ra quan điểm này. Anh ta cho là một người đàn ông mà còn đam mê trò giải trí vô bổ như sưu tầm côn trùng thì cũng đủ coi là một bằng chứng cho hành vi điên khùng của hắn. Ngay ở cả trẻ con, sự chú tâm khác thường vào việc sưu tầm côn trùng cũng đã biểu lộ một cách thường xuyên cái mặc cảm Oedipus [1] rồi. Để bù lại những ham thích không bao giờ thỏa mãn của mình, bọn nhóc thường thích thú lấy kim găm côn trùng lại, khỏi phải lo chúng trốn thoát. Và thực tế cho thấy đứa trẻ khi lớn lên mà không từ bỏ cái trò chơi đó là một dấu hiệu hoàn toàn chắc chắn chứng tỏ tình trạng bệnh hoạn ngày càng xấu đi. Do vậy, không phải ngẫu nhiên mà các nhà côn trùng thường rất say sưa với công việc thu lượm, và họ là những người sống hết sức đơn độc, hay ăn cắp vặt và đồng tính luyến ái. Từ đó, tự tử để giải thoát khỏi sự chán ngán với cuộc đời chỉ là một bước ngắn thôi. Thực tế là thậm chí có những nhà sưu tầm bị cuốn hút bởi các chất hóa học trong lọ của họ hơn là bản thân công việc sưu tầm, và dù có cố đến đâu họ cũng không thể bỏ được công việc của mình. Người đàn ông này quả thực chưa hề giãi bày với ai về những say mê của anh ta, và điều đó chứng tỏ anh ta thấy mọi người đều đáng ngờ cả.
Tuy nhiên, vì chưa tìm thấy một tử thi nào, cho nên tất cả những giả thuyết uyên bác trên đều không có cơ sở.
Bảy năm đã trôi qua mà không một ai biết rõ sự thể, và bởi thế, chiếu theo điều 30 của Bộ Dân luật, người đàn ông ấy được tuyên bố là đã chết.
__
[1] Mặc cảm Oedipus (Oedipus complex) là khái niệm nói lên trạng thái lưỡng phân của đứa bé yên mẹ, ghét bố vì ghen với bố, đồng thời biết mình không nên như thế, do đó nó tự cảm thấy có lỗi, tình cảm đó hiện ra trong những biêu hiện lo âu của những bệnh nhân tâm thần. Trên cơ sở quan sát những hiện tượng đó ở người bệnh, Freud xây dụng lý thuyết về sự phát triển tình dục của đứa trẻ từ năm 1905 dựng lên lý thuyết phân tâm học (psychanalyse). Nhưng Freud chỉ rút ra từ câu chuyện trong vở bi kịch của Sophocles cái mô-típ giết cha lấy mẹ của nhân vật, ông cho rằng mỗi cá nhân đều có những ham muốn như Oedipus và run sợ trước những ham muốn đó. Đó là mặc cảm Oedipus.
CHƯƠNG 2
Một buổi chiều tháng Tám, có một người đàn ông đứng trong nhà ga xe lửa tại S... Anh ta đội chiếc mũ nồi màu xám, ống quần nhét vào trong bít tất. Hai vai đeo lủng lẳng bình nước và cái hộp gỗ lớn. Hình như anh ta sắp sửa tiến hành một cuộc leo núi.
Tuy vậy, trong vùng lân cận làm gì có ngọn núi nào đáng leo. Vì thế, người gác cửa thu vé của anh ở cửa ra vào đã nhìn anh với vẻ chế nhạo sau khi anh đi khỏi. Người đàn ông không chút lưỡng lự bước lên chiếc xe buýt đỗ trước nhà ga, và ngồi xuống một chỗ ở cuối xe. Con đường mà chiếc xe buýt chạy qua sẽ đưa hành khách ra khỏi vùng núi non.
Người đàn ông ngồi trên xe tới bến cuối cùng. Nơi anh xuống là một vùng nhiều đồi nhỏ và lũng sâu xen nhau. Vùng đất thấp là những ruộng lúa phân cắt thành từng mảnh hẹp, trong số đó có vài chân ruộng hơi cao trông giống quả hồng vàng, nằm rải rác nom tựa những hòn đảo nhỏ. Người đàn ông đi qua một làng rồi tiếp tục đi về phía bờ biển, đất ở đây chuyển dần thành màu trắng đục và khô hạn.
Đi thêm lát nữa thì đến một vùng không thấy nhà cửa, chỉ có vài khóm phi lao mọc rải rác đó đây. Thế rồi đất chuyển sang một thứ cát mịn, níu lấy chân người lữ khách. Lác đác có mấy nhánh cỏ cằn cỗi in bóng xuống những vũng cát nông choèn. Đôi khi bắt gặp dăm ba khóm cà khẳng khiu như mọc nhầm chỗ trên vạt đất rộng bằng chiếc chiếu. Bốn bề không một bóng người. Xa hơn nữa, phía trước mặt anh là biển cả.
Lần đầu tiên người đàn ông dừng bước. Anh lấy ống tay áo lau mồ hôi trên mặt và nhìn quanh. Anh thận trọng mờ hộp gỗ, lấy ra mấy thanh gỗ tròn đã được buộc lại thành bó để ở ngăn trên cùng. Anh lắp những thanh gỗ đó lại thành một cái cán, và buộc chiếc vợt bắt côn trùng vào một đầu cán. Anh vừa tiếp tục bước, vừa dùng cán vợt đập đập vào các bụi cỏ. Khắp bãi cát, đâu đâu cũng thấy hương vị của biển khơi.
Anh đi thêm một lát nữa mà vẫn chưa nhìn thấy biển. Có lẽ địa thế vùng đất đồi đã chắn mất tầm mắt. Cảnh vật không đổi thay tiếp tục trải dài vô tận. Rồi bất chợt quang cảnh được mở rộng hẳn ra, anh nom thấy một ngôi làng nho nhỏ. Đó là một làng nghèo như bao làng khác, với những mái nhà chặn đá võng xuống nằm túm tụm quanh một chòi canh. Một số nhà lợp bằng ngói đen, một số khác lợp tôn sơn đỏ. Một ngôi nhà lợp tôn, có lẽ, là nhà họp của vạn chài được dựng lên tại ngã tư độc nhất của làng.
Phía bên kia làng chắc còn nhiều đụn cát nữa rồi đến biển. Tuy vậy ngôi làng nom nhỏ mà trải rộng ra tới mức không ngờ. Chỉ có dăm ba vạt đất mầu mỡ, còn phần lớn đất toàn là cát trắng khô cằn. Một vài thửa ruộng trồng khoai tây và lạc. Mùi hôi của gia súc xông lên hòa với mùi của biển. Một đống vỏ hến vỏ sò nát vụn tạo thành một cái gò màu trắng bên lề con đường cát và đất sét, cứng như thể xi-măng. Khi người đàn ông đi vào đường làng, bọn trẻ con đang chơi đùa trên bãi đất rộng trước sân nhà họp của vạn chài, mấy ông già ngồi vá lưới dưới mái hiên võng, và các bà các cô tóc rối bù đang tụ tập trước cửa hàng tạp hóa duy nhất của làng. Tất cả các sinh hoạt ngừng lại trong giây lát khi họ tò mò nhìn anh. Nhưng người đàn ông chẳng thèm để ý. Chỉ có cát và côn trùng mới là tất cả những gì mà anh quan tâm.
Tuy vậy, kích thước của ngôi làng không phải là điều duy nhất đáng ngạc nhiên. Trái với những gì người ta chờ đợi, con đường cứ cao dần lên. Do đây là đường đi ra biển, lẽ ra nó phải thấp xuống mới hợp lẽ tự nhiên. Hay là anh đọc sai bản đồ? Anh thử hỏi thăm một cô gái làng đi ngang qua lúc đó. Cô ta chỉ đưa mắt nhìn xuống đất, rồi hối hả đi như không nghe thấy gì. Thế nhưng đống vỏ sò, những chiếc lưới đánh cá và màu sắc của cát như muốn bảo cho anh biết rằng chắc chắn biển cả nằm gần đâu đây thôi. Thực sự không có hiện tượng gì báo trước sự nguy hiểm.
Con đường mỗi lúc một lên cao dần và hiểm trở; càng đi càng thấy toàn một thứ cát trắng khô cằn.
Nhưng có điều đáng lạ là, những nơi có nhà cửa mọc lại không có vẻ gì cao hơn lên. Chỉ duy có con đường cứ vươn lên cao, trong khi cả xóm làng vẫn nằm nguyên ở độ cao ấy. Không phải chi con đường, mà cả những khoảng đất giữa các ngôi nhà cũng cao dần lên như thế. Tóm lại là, cả ngôi làng như dốc dần lên, trừ nhà cửa là còn nguyên độ cao cũ. Càng đi ấn tượng này càng đập mạnh vào tâm trí anh. Cuối cùng, tất cả các ngôi nhà đều như bị lún trong những hố cát sâu. Mặt cồn cát còn cao hơn cả các mái nhà. Các dãy nhà thì như ngày càng lún sâu hơn vào những hố lõm.
Độ dốc của con đường bất chợt tăng lên. Có lẽ ít nhất phải đến sáu mươi lăm foot [1], cao hơn các mái nhà phía dưới. Kỳ lạ thay, làm thế nào người ta có thể sống được trong những ngôi nhà dưới kia? Anh kinh ngạc suy nghĩ và đưa mắt nhìn xuống một trong những hố sâu. Bất chợt một luồng gió lạnh thổi qua khiến anh ngợp thở, khi anh đi quanh miệng hố. Không gian bỗng mở rộng ra và trước mắt là biển cả cuộn sóng, ngoạm vào bờ biển phía dưới. Anh đang đứng trên đỉnh những đụn cát!
Sườn những đụn cát trông ra biển và nơi ấy do luôn luôn phải hứng những đợt gió mùa nên dựng đứng hẳn lên, nhưng vẫn có nhiều bụi cỏ cằn cỗi mọc ở những chỗ không dốc lắm. Người đàn ông ngoái nhìn làng xóm phía sau, và anh thấy những chiếc hố lớn, những hố này càng gần đỉnh đụn cát càng sâu, và trải thành nhiều tầng lớp hướng vào giữa. Ngôi làng này nằm vắt ngang trên những đụn cát, hay nói đúng hơn, những đụn cát nằm vắt ngang làng xóm. Dẫu sao thì đây cũng là một quang cảnh thực kỳ quái và lạ lùng.
Thế nhưng anh cũng đã đến được chỗ định đến, tức là chỗ những đụn cát. Anh uống vài ngụm nước đựng trong bình, và hít căng lồng ngực - không khí trong lành quá khiến anh cảm thấy ngợp.
Anh có ý định sưu tầm các loài côn trùng sống trong các đụn cát.
___
[1] Đơn vị đo chiều dài Anh - Mỹ, bằng 0,3048 mét.
CHƯƠNG 3
Anh lại đi tiếp, đầu cúi xuống, men theo những đụn cát bao bọc quanh ngôi làng như một bờ lũy cao vượt khỏi ngôi làng. Anh hầu như không để ý gì tới khung cảnh ở xa. Một nhà côn trùng học cần tập trung tất cả sự chú ý của mình trong vòng bán kính khoảng ba thước quanh chỗ chân anh ta đứng. Và một trong những định luật cơ bản là anh ta không được quay lưng về phía mặt trời. Nếu mặt trời chiếu sau lưng anh ta, sẽ làm côn trùng hoảng sợ vì chính cái bóng của anh ta. Bởi thế, trán và mũi các nhà sưu tầm côn trùng thường bị sạm nắng.
Anh tiến về phía trước bằng những bước chậm rãi, vững chắc. Cứ mỗi bước đi, cát lại tràn vào đầy giày của anh. Ngoài những cây cỏ dại bám hờ vào mặt cát như thể chỉ chờ có được chút hơi ấm là nảy nở, còn thì không thấy một sinh vật nào quanh đó. Thảng hoặc, những con ruồi màu mu rùa bay lượn quanh quẩn khi ngửi thấy hơi người. Tuy nhiên, chính vì ở một chỗ như thế này mà anh hy vọng có thể tìm được cái gì chăng.
Thình lình anh đứng sững lại. Có một vật gì động đậy gần gốc một bụi cỏ. Thì ra đó là một con nhện. Giống nhện thì anh chẳng thèm bận tâm. Anh ngồi xuống để hút một điếu thuốc. Xa xa phía dưới gió không ngừng thổi từ biển vào, những đợt sóng hung hãn xô vào chân các đụn cát. Nơi những đụn cát đổ thoai thoải về phía tây có một ngọn đổi nhỏ với những tảng đá trơ trụi nhô ra ngoài mặt biển. Ánh mặt trời đổ trên đồi tạo thành những vệt sáng sắc nhọn.
Anh đánh diêm châm thuốc rất khó khăn. Đã đánh diêm mười lăm lần mà không tài nào châm nổi điếu thuốc. Khi anh vứt que diêm thứ mười đi, những lớp cát chuyển động nhanh gần bằng tốc độ chiếc kim chỉ phút của chiếc đồng hồ anh đeo ở tay. Anh nhìn chăm chú một đợt sóng cát nhỏ và khi đợt sóng tràn tới gót giày, anh đứng dậy. Cát bám vào quần anh rơi xuống lả tả. Anh phủi quần, miệng khô đắng.
Như vậy chắc không có nhiều côn trùng lắm. Hình như cát chuyến động quá mạnh. Không, không nên nản lòng sớm như vậy; kinh nghiệm của anh mách bảo rằng thế nào cũng có một ít loài côn trùng sinh sống ở đây.
Những đụn cát bằng phẳng dần và có một phần nhô ra ngoài biển. Anh lần xuống cái dốc thoai thoải vì linh tính cho biết có thể con mồi của anh đậu ở đó. Một vật trông giống như bức hàng rào chắn gió làm bằng những chiếc cọc, rải rác đó đây, đánh dấu mỏm đất nhô ra biển. Phía bên kia, trên một vùng đất thấp hơn là một bình nguyên. Anh đi tiếp, băng qua những sóng cát trải ra đều đặn như được san bằng máy. Bất thình lình tầm nhìn của anh bị cắt ngang, và anh thấy mình đang đứng trên thành một cái hố sâu.
Cái hố hình bầu dục, chu vi khoảng hai mươi mét. Thành hố phía xa hơi thoai thoải còn thành bên này, ngược lại, gây cho ta cảm giác đó là một bức vách dựng đứng. Gần chỗ anh đứng, bức vách cong ra như miệng một chiếc lọ độc bình bằng sứ. Anh thận trọng đặt một chân lên miệng hố và nhìn xuống phía dưới. Gần miệng hố còn sáng trong khi dưới hố âm u như thể chiều đã buông.
Trong ánh sáng nhờ nhờ đáy hố anh thấy có một căn nhà nhỏ nhoi chìm trong im lặng. Một đầu hồi bị vùi dưới cát đổ chéo từ vách đứng xuống trông chẳng khác gì một con sò.
Anh nghĩ, dù dân làng có cố gắng mấy đi chăng nữa, họ khó mà thoát khỏi bị cát vùi. Anh đưa máy ảnh lên ngắm định bấm thì lớp cát dưới chân anh chuyển động rào rào. Anh sợ hãi rụt ngay chân lại, mãi một lúc sau cát mới ngừng chuyển động. Quả là anh đang ở vào một thế chông chênh, nguy hiểm! Anh lấy hơi thật mạnh và liên tiếp chùi hai bàn tay đẫm mồ hôi vào hai bên hông quần.
Có tiếng ho nổi lên ngay bên cạnh anh. Một ông già, chắc là dân chài trong làng, đang đứng sát ngay đây, gần như chạm cả vào vai anh lúc nào không biết. Khi anh nhìn vào chiếc máy ảnh rồi nhìn xuống đáy hố, ông già nhếch miệng cười khiến cho khuôn mặt ông ngắn lại, nhăn nheo như da thỏ đang thuộc dở. Đôi mắt đỏ ngầu của ông ánh lên vẻ bí ẩn kỳ cục.
- Ông đang điều tra à? - Giọng nói của ông già bị gió tạt đi nghe lanh lảnh như phát ra từ một chiếc máy bán dẫn, nhưng âm điệu rõ ràng không khó nghe lắm.
- Sao lại điều tra? - Anh lúng túng, lấy bàn tay che ống kính máy ảnh lại. Anh đưa chiếc vợt bắt côn trùng ra để ông già trông thấy - Cụ bảo sao? Tôi không hiểu. Tôi đi sưu tầm côn trùng. Ngành chuyên môn của tôi là các loài côn trùng sống trong cát.
- Sao cơ? - Ông già có vẻ chưa hiểu.
- Tôi sưu tầm côn trùng. - Anh cao giọng nhắc lại - Côn tr...u...ù...ùng. Tôi bắt chúng như thế này!
- Côn trùng à? - Ông già ngập ngừng. Vừa nhìn xuống dưới hố, ông khạc nước bọt. Hay nói chính xác hơn là ông tiết nước bọt ra khỏi mồm. Gió cuốn đi từ môi ông thành một dòng nhỏ dài. Lạy trời, không hiểu vì sao ông già có vẻ lo lắng thế?
- Hình như quanh vùng này đang có một cuộc điều tra phải không cụ?
- Không, không. Nếu ông không điều tra thì tôi cũng chẳng bận tâm tới việc của ông làm chi.
- Không, tôi chẳng điều tra gì đâu.
Ông già quay người, bước dọc theo cồn cát, chẳng buôn gật đầu từ biệt, vừa đi, vừa lết đôi dép bằng cói.
Ba người đàn ông ăn mặc giống nhau, đến từ lúc nào không biết, ngồi xổm lặng lẽ trên cát như đang đợi ông già, cách chỗ anh đứng khoảng năm trăm mét. Người ngồi giữa dùng tay xoay xoay chiếc ống nhòm trên đầu gối. Khi ông già bước tới, họ đang bàn tán với nhau một điều gì đó. Họ đá cát phía dưới chân. Nom họ tranh luận có vẻ sôi nổi lắm.
Đúng lúc anh đang thử tìm kiếm con bọ cát, làm như không chú ý gì đến cuộc bàn tán của họ, thì ông già vội vã quay lại chỗ anh.
- Vậy ra ông không phải là người do chính quyền phái đến đây à?
- Chính quyền nào? Cụ nhầm rồi.
Anh rút phăng tấm giấy chứng nhận ra, lộ vẻ bực bội vì bị quấy rầy. Ông già lẩm nhẩm đọc, rất khó khăn.
- À! Ông là nhà giáo?
- Tôi hoàn toàn không có liên quan gì đến chính quyền.
- Hừm! Thì ra ông là một thầy giáo.
Cuối cùng ông già tỏ ra hiểu, đuôi mắt nheo lại, quay đi, tay cầm tấm thẻ một cách kính cẩn. Ba người đàn ông tỏ vẻ hài lòng, đứng dậy, rút đi.
Ông già lại trở lại chỗ anh.
- Tiện thể xin hỏi, ông định làm gì bây giờ?
- Tôi đi tìm côn trùng.
- Nhưng chuyến xe buýt cuối cùng đã khởi hành rồi.
- Ở đây có nhà nào mà tôi có thể nghỉ lại được không?
- Ngủ lại suốt đêm? Tại làng này ấy à? - Khuôn mặt người đàn ông trở nên rúm ró.
- Nếu không thể ở lại đây được, tôi đành cuốc bộ qua làng bên vậy.
- Đi bộ ấy à?
- Thật ra, tôi không có việc gì vội vã lắm.
- Nếu thế, tội gì lại tự gây thêm phiền toái ra? - Chợt ông già trở nên sôi nổi. Ông ta ân cần tiếp tục - Ông biết đấy, đây là một làng nghèo nàn. Ở đây không có lấy một cái nhà cho ra hồn. Nhưng nếu ông không nề hà gì thì tôi xin có lời khuyên, xem xem có thể giúp ông được gì không.
Xem ra ông già không có gì xấu cả. Chẳng qua dân làng thận trọng là để đề phòng một nhân viên chính quyền địa phương có ý định đến đây kiểm tra gì đó thôi. Khi sự thận trọng giảm đi thì họ chi là những dân chài đôn hậu, giản dị.
- Tôi rất cảm ơn cụ nếu cụ có thể thu xếp hộ cho. Tất nhiên là tôi rất tán thành... Tôi vô cùng hân hạnh được trọ trong nhà của dân làng.
CHƯƠNG 4
Mặt trời đã lặn và gió dịu đi. Anh đi dọc cồn cát cho đến lúc không nhìn rõ những sóng cát do gió tạo nên nữa. Hình như anh không bắt được mẩu vật nào suốt cả ngày. Anh chưa bắt được cả mấy con bọ mà anh chủ tâm tìm kiếm. Và chính vì vậy anh tính sẽ tiếp tục cuộc sưu tầm vào ngày hôm sau.
Anh hoa mắt vì mệt mỏi. Rồi dù không chủ định anh cũng dừng lại và dán mắt vào những đụn cát đang tới dần. Thực uổng công, vì bất cứ vật gì động đậy trông đều giống loài bọ cánh cứng hết.
Ông già, như đã hứa, đứng đợi anh trước nhà của vạn chài.
- Tôi rất áy náy vì đã làm phiền cụ.
- Có gì đâu. Tôi chỉ mong ông ưng chỗ mà tôi tìm được cho ông.
Hình như trong nhà đang có cuộc họp. Bốn năm người đàn ông ngồi quây tròn với nhau, những tiếng cười nổi lên. Trên cửa ra vào có treo ngang một tấm biển với những chữ lớn: “Hãy yêu quý ngôi nhà của bạn”. Ông già nói gì không rõ, tiếng cười chợt ngừng và ông cùng mấy người bước ra. Con đường rải vỏ sò vỏ hến màu trắng trôi mờ ảo trong bóng chiều chạng vạng.
Anh được dẫn đến một trong những cái hố nằm trên phần cao của những đụn cát cuối làng. Ở đây có một đường mòn hẹp dẫn xuống bờ dốc bên phải. Sau khi đi tiếp một đoạn, ông già nghiêng mình nhìn xuống cái hố tối om, vỗ mạnh hai tay vào nhau, gọi lớn: “Này! Chị ơi! Này!”.
Từ bóng tối thăm thẳm dưới chân họ, có ánh đèn chập chờn và tiếng đáp: “Vâng! Tôi đây! Có cái thang ở cạnh mấy bao cát đó”.
Quả thật nếu không có thang thì anh không thể nào leo xuống được. Nếu thế có lẽ anh phải dùng hai tay bám chặt vào vách dốc thẳng đứng. Hố sâu gần gấp ba lần mái nhà và ngay cả khi có thang, việc leo xuống cũng không dễ dàng gì. Anh nhớ lại, ban ngày bờ dốc thoai thoải, nhưng bây giờ nhìn lại anh mới nhận thấy nó gần như dựng đứng. Chiếc thang làm bằng dây thừng, nếu để mất thăng bằng nó có thể sẽ xoắn lại. Thật chẳng khác gì sống trong một thành lũy thiên nhiên.
- Ông không phải bận tâm gì hết, cứ nghỉ ngơi cho khỏe.
Ông già không đi cùng với anh xuống đáy hố mà quay trở lên.
Từ phía trên cát đổ xuống. Người đàn ông chợt có cảm giác là lạ như đang sống lại thời ấu thơ. Anh tự hỏi không biết người đàn bà già hay trẻ; ông già gọi bằng “chị” cơ mà. Nhưng người ra đón anh tay cầm ngọn đèn giơ lên cao lại là một phụ nữ nhỏ nhắn, khá đẹp, khoảng ba mươi tuổi. Có lẽ chị ta đánh phấn, nếu không thì đối với dân miền biển, chị có một nước da trắng lạ lùng. Anh thầm cám ơn chị vì sự đón tiếp niềm nở, chứng tỏ chị cũng rất vui khi được tiếp anh.
Thật vậy, nếu không có sự tiếp đón niềm nở ấy có lẽ anh sẽ cảm thấy khó có thể ở lại căn nhà này. Anh sẽ nghĩ là những người đưa anh đến đây có ý định trêu anh, và chắc cũng sẽ trở lại ngay thôi. Tường vách nứt nẻ, cửa thì che bằng chiếu, khung nhà võng xuống, tất cả các cửa sổ được bịt lại bằng ván, chiếu cói sắp mục và khi bước lên trên, nó phát ra một thứ tiếng lép bép tựa hồ miếng bọt biển đẫm nước. Hơn nữa, xung quanh sặc mùi cát cháy khét lẹt khó chịu.
Mọi sự tùy thuộc ở thái độ con người. Anh trở nên dễ tính nhờ cung cách đối xử của người phụ nữ ấy. Anh tự nhủ đây là một cơ hội hiếm có. Và nếu may mắn, anh có thể bắt được vài con côn trùng lý thú nữa cũng nên! Đây quả là chỗ ở lý tưởng của côn trùng.
Điều anh dự đoán không sai chút nào. Khi anh được mời ngồi xuống bên chiếc lò sưởi đã lún một phần xuống nên nhà bằng đất thì chẳng bao lâu sau, có tiếng lộp độp như mưa rơi quanh người. Đấy là một đàn bọ chét. Nhưng anh không hốt hoảng vì những con vật như vậy. Một người sưu tầm côn trùng phải trang bị thật đầy đủ. Anh đã rắc thuốc DDT sẵn vào trong lớp quần áo đang mặc rồi. Và có lẽ trước khi đi ngủ, anh nên bôi thuốc khử côn trùng lên những phần bỏ ngỏ của thân thể.
- Em đang sửa soạn nấu ăn. Ông đợi cho ít phút nữa thôi. - Người phụ nữ vừa nói vừa đứng lên, với tay cầm cây đèn - Ông vui lòng ngồi trong bóng tối một chút được không ạ.
- Chị chỉ có một cây đèn thôi sao?
- Vâng, rất tiếc.
Chị cười, hơi bối rối. Một lúm đồng tiền lộ ra trên má trái. Anh nghĩ, chị ta trông rất có duyên, trừ đôi mắt. Có lẽ trong cái nhìn của chị chứa đựng một nỗi buồn nào đó.
- Điều đó không có gì quan trọng. Tôi muốn được tắm rửa cái đã.
- Tắm ấy ạ?
- Thế nhà không có buồng tắm hay sao?
- Em rất tiếc, nhưng ông có thể đợi đến ngày kia được không?
- Đợi đến ngày kia à? Nhưng tôi ở lại đây đến ngày kia làm gì cơ chứ? - Nghe vậy anh không khỏi phá lên cười.
- Ồ!
Chị chưng hửng quay mặt đi. Anh nghĩ có lẽ chị ta thất vọng vì thường thường dân quê vốn chất phác, thật thà. Anh liếm môi liên tục, vẻ lúng túng.
- Nếu không có buồng tắm, chị chỉ cho tôi một ít nước để dội qua người thôi cũng được. Người tôi toàn cát là cát.
- Em rất tiếc, nhưng chúng em chỉ có mỗi một xô nước. Giếng cách đây khá xa.
Chị có vẻ bối rối và anh định bụng sẽ không nói gì thêm. Chẳng mấy chốc anh rất buồn mà nhận thấy rằng tắm gội chẳng được tích sự gì.
Người phụ nữ mang bữa ăn vào: canh nấu với sò và cá luộc. Đúng là một bữa ăn miền biển. Thôi cũng được. Nhưng đúng lúc anh bắt đầu ăn, chị giương một chiếc ô rộng bằng giấy và che trên đầu anh.
- Che làm gì vậy? - Anh ngạc nhiên không hiểu đây có phải là một phong tục của miền này không.
- Dạ, nếu em không che cái ô này thì cát sẽ rơi xuống đồ ăn của ông mất.
- Tại sao lại rơi xuống được? - Anh hỏi, mắt ngước lên trần nhà và không thấy một lỗ thủng nào hết.
Chị đưa mắt nhìn theo.
- Cát vào nhà bằng mọi ngả. Mỗi ngày cát rơi xuống khoảng hai phân rưỡi nếu em không quét nó đi.
- Thế cái mái hỏng rồi à?
- Vâng, hỏng khá nặng. Nhưng ngay cả khi mái mới lợp rạ lại thì cát vẫn cứ lọt vào được như thường. Thật là kinh khủng. Còn tệ hơn cả một con mọt gỗ nữa.
- Một con mọt gỗ nào?
- Cái giống côn trùng đục gỗ ấy mà.
- Có thể đó là con mối, phải vậy không?
- Không, không phải. Nó lớn gần bằng thế này... có vỏ cứng.
- A. Thế thì nó là con bọ dừa rồi.
- Một con bọ dừa?
- Nó có râu dài, mình hơi đỏ, đúng không nào?
- Không, nó màu vàng đồng và mình to như hạt gạo.
- Thế à. Thế thì nó là con bọ cánh cứng óng ánh nhiều màu.
- Nếu cứ để nó tiếp tục hoành hành thì những cái xà ngang như thế này sẽ mục hết.
- Ý chị nói cái giống bọ cánh cứng óng ánh màu?
- Không, em nói cát ấy chứ.
- Tại sao?
- Cát ùa vào nhà từ mọi phía. Vào những ngày gió đổi chiều, cát chui vào bên trong mái nhà. Nếu em không quét, chẳng mấy chốc nó sẽ dốn lại đè nặng đến nỗi các xà gỗ không chịu nổi.
- Ừ, tôi cũng thấy không nên để cát tích lại trên trần nhà như vậy. Nhưng thật kỳ khi nói là cát làm cho các xà ngang bị mục đi.
- Không kỳ đâu. Cát làm mục các cây xà thật đấy.
- Nhưng chị biết là cát vốn khô chứ?
- Thế mà nó vẫn làm mục cây xà như không. Nếu ông để cát lên trên đôi guốc mới đẽo, chỉ trong vòng nửa tháng chúng sẽ mục ra ngay. Người ta nói là những chiếc guốc đó tan ra, quả không sai.
- Tôi không hiểu làm sao lại như vậy.
- Gỗ mục và cát cũng mục theo. Em nghe nói, người ta có thể lấy đất ở chỗ những xà gỗ mái nhà bị vùi sâu trong cát để trồng dưa chuột kia đấy.
- Làm gì có! - Anh bật nói ra, không giữ ý tứ, mặt nhăn lại. Anh cảm thấy sự hiểu biết riêng của anh về cát bị xúc phạm bởi sự dốt nát của người phụ nữ này! - Tôi được biết một ít về cát. Để tôi nói cho chị nghe. Cát di chuyển như thế này quanh năm. Chính cách di chuyển đó là sự sống của nó. Nó không bao giờ ngừng di chuyến, bất cứ ở đâu. Nó chuyển động tự do, dù ở trong nước hay trong không khí, không chịu sự ngăn cản nào hết. Vì vậy, thông thường, những sinh vật bình thường không thể nào sống trong cát được, ngay cả vi trùng cũng thế. Giải thích thế nào được nhỉ... Cát tượng trưng cho sự trinh bạch, trong trắng. Có thể nó làm chức năng giữ gìn chứ không làm mục nát bất cứ cái gì. Cát còn là một khoáng chất rất quý. Không đời nào nó lại chịu mục nát.
Chị trở nên lạnh lùng và im lặng. Anh ăn vội vàng không nói gì nữa cho xong bữa dưới bóng chiếc ô chị cầm ở tay. Trên ô, cát tích lại thành một lớp dày đến nỗi có thể dùng ngón tay viết chữ lên đó được.
Sự ẩm ướt thật vô cùng khó chịu. Tất nhiên không phải cát ẩm mà chính cơ thể anh nhớp nháp. Gió rên rỉ phía trên mái nhà. Anh lấy bao thuốc ra khỏi chiếc túi đầy ắp cát. Anh có cảm giác là có thể thấy được vị khét ngái trước khi châm một điếu lên.
Anh lấy một con côn trùng ra khỏi chai đựng thuốc ngâm. Trước khi con vật cứng lại, anh dùng kim ghim chặt nó, ít ra anh có thể giữ được hình dạng mấy cái chân của nó. Từ phía ngoài vẳng lại tiếng rửa bát đĩa. Có lẽ không còn ai sống trong nhà này nữa? Anh tự hỏi.
Khi quay vào, chị lặng lẽ bắt đầu soạn giường cho anh tại một góc phòng. Nếu chị để anh ngủ ở đó thì chị ngủ ở đâu? Tất nhiên là ở phòng trong, sau chiếc chiếu che kia. Ngoài hai chỗ này, trong nhà không còn có nơi nào trông giống một cái phòng cả. Nếu thế thì lạ thật, để khách ngủ ở phòng ngoài còn chủ nhà lại ngủ ở phòng trong. Hay là chị ta có người nhà bị tàn tật không thể đi ra ngoài này chăng? Anh tự hỏi. Có lẽ thế. Rõ ràng nghĩ như vậy có lý hơn. Trước hết, không thể đòi hỏi một phụ nữ độc thân một sự chăm sóc quá mức đối với một khách qua đường như vậy.
- Nhà có ai nữa?
- Ông muốn nói gì, ai nữa là thế nào?
- Người nhà của chị hay là...
- Không, em sống một mình. - Chị như đọc được những ý nghĩ của anh, và đột nhiên bật cười gượng gạo vụng về.
- Mọi thứ đều bị cát làm ẩm mốc, mấy cái chăn cũng vậy.
- Thế chồng chị đâu?
- Ồ, trong trận bão năm ngoái... - Chị làm ra vẻ bận rộn và vỗ nhẹ lên mép chiêu đã trải xong.
- Bão tố quanh đây thật là khủng khiếp. Cát tràn đến, gầm rú như thác lũ. Dù cố ngăn, cát vẫn dâng lên từ ba đến sáu thước trong có một đêm.
- Đến sáu thước cát cơ à?
- Dù ông có ra sức xúc đến mấy đi nữa, những lúc như thế ông cũng không cách gì chống lại được. Nhà em chạy ra khỏi nhà với cháu gái út, lúc ấy cháu đang học trung học, kêu lên rằng dãy chuồng gà nguy mất. Em bận chống đỡ cho cái nhà nên phải ở lại. Sáng hôm sau khi gió ngừng, em ra khỏi nhà xem sao. Không còn một dấu vết nào của dãy chuồng gà hay của bất cứ vật gì nữa.
- Họ bị chôn sống à?
- Vâng, tất cả bị chôn sống.
- Ghê quá! Thật khủng khiếp! Cát quả là dễ sợ.
Bất thình lình cái đèn xèo xèo như muốn tắt.
- Cát đấy!
Chị bò xuống đất, tay dang ra. Chị vừa dùng tay chụp lấy cái tim đèn vừa cười lớn. Đèn cháy sáng lại liền, vẫn ở tư thế đó chị nhìn chăm chú vào ngọn lửa, mỉm cười lạ lùng. Anh nhận thấy rõ ràng chị chủ tâm để lộ lúm đồng tiền, và bất giác cơ thể anh như đông cứng lại. Anh tự nhủ nụ cười ấy thực sỗ sàng, nhất là ngay sau khi chị ta nói về cái chết của những người thân thương nhất.
CHƯƠNG 5
Này! Chúng tôi mang một cái xẻng với cái thùng cho người kia đây!”
Một giọng nói sang sảng từ xa vọng lại phá tan sự yên tĩnh, có lẽ người ta dùng loa. Sau đó nổi lên tiếng của những vật bằng tôn va vào nhau khi người ta thả xuống hố. Chị đứng dậy đáp lại.
Anh cảm thấy bực bội vì một việc gì mờ ám đang diễn ra mà anh không biết.
- Gì thế chị? Nhà này hình như còn một người nữa?
- Ôi dào! - Chị vặn người như bị sái.
- Vì có người vừa nói là cho người kia đấy thôi?
- Vâng, họ ám chỉ ông đó.
- Ám chỉ tôi ấy à? Tạo sao lại nói đến tôi với cái xẻng?
- Có gì đâu, chẳng phải để ý làm gì. Thật ra thì họ tò mò quá mà thôi.
- Hay là họ nhầm?
Người thiếu phụ chẳng trả lời câu anh hỏi, chị xoay người và bước xuống nền nhà đất.
- Xin lỗi, ông vẫn còn dùng đèn chứ?
- Vâng, tôi chưa xong việc. Sao? Hình như chị cần đèn ra ngoài kia à?
- Không. Em quen với công việc này rồi.
Chị đội nón lên đầu, loại nón lá dùng khi làm vườn và nhanh nhẹn bước ra ngoài bóng đêm.
Anh châm một điếu thuốc khác, đầu nghiêng nghiêng. Anh cảm thấy có một điều gì đó đáng ngờ. Anh lặng lẽ đứng dậy và quyết định bước tới nhìn vào phía sau chiếc chiếu xem sao. Phía trong là một căn phòng nhưng không có giường chiếu gì cả. Cát tràn vào phòng từ phía trên vách, tạo thành một đường cong thoai thoải. Anh chợt rùng mình và đứng chôn chân tại chỗ.
Căn nhà đã bị cát vùi một nửa. Những đợt cát của trận bão cát choán tới nửa phần nhà. Những hạt cát nhỏ li ti không có hình thù, đường kính chỉ bằng một phần tám milimét. Thế mà không có vật gì ngăn được sức mạnh vô hình và tàn phá của nó. Phải chăng vì cát không có hình thể mà nó có sức mạnh vô cùng chăng?
Nhưng anh trở về ngay với thực tại. Giả sử như căn phòng này không dùng được. Vậy thì chị ta định ngủ ở đâu? Anh nghe thấy tiếng chân chị bước đi bước lại bên kia bức vách gỗ. Đồng hồ đeo tay của anh chỉ tám giờ hai phút. Anh tự hỏi chị ta đang làm cái trò gì vào giờ này thế không biết?
Anh bước xuống nền nhà bằng đất để đi tìm nước uống. Một lớp váng đỏ nổi lên mặt một ít nước còn lại nơi đáy lu. Nước thế còn hơn là nhai cát lạo xạo mãi trong mồm. Sau khi rửa mặt và lau gáy, anh cảm thấy dễ chịu hơn.
Một luồng gió lạnh thổi dọc theo sàn nhà bẩn thỉu. Có lẽ ở ngoài sẽ dễ chịu hơn. Anh lách mình qua khuôn cửa kéo mà cánh cửa đã bị chôn chặt vào cát và bước ra ngoài. Cơn gió nhẹ thổi từ trên đường cái xuống lòng hố trở nên lạnh hơn. Gió mang tiếng động cơ hình như của một chiếc xe ba bánh chở hàng vang tới chỗ anh. Và khi lắng nghe anh có thể nhận ra tiếng của nhiều người. Hơn thế nữa anh cảm thấy ban đêm ở đây có vẻ náo động hơn ban ngày, hay đó chỉ là do anh tưởng tượng ra thôi. Hay đó chỉ là tiếng rì rầm của biển cả? Bầu trời đầy sao.
Người thiếu phụ quay lại khi thấy ánh đèn. Chị sử dụng cái xẻng một cách khéo léo lúc xúc cát vào một cái thùng dầu lửa rỗng. Phía sau chị là bức tường cát đen cao vút và cong võng xuống như muốn sập xuống đầu họ. Có lẽ chính trên đó là nơi anh đã đi tìm côn trùng ban ngày. Khi hai thùng dầu cũ đã đầy cát, người thiếu phụ xách mỗi bên tay một cái mang đến chỗ anh đứng. Chị ngước lên nhìn anh khi đi ngang qua. “Cát đây”, chị nói, giọng the thé. Chị đổ hai thùng cát xuống gần đường rãnh ở phía sau chỗ treo thang dây. Sau đó chị lau mồ hôi bằng một đầu khăn tắm. Chỗ chị đổ cát đã đầy ắp những cát.
- Em đang dọn cát.
- Chị sẽ chẳng bao giờ dọn được hết dù chị có làm mãi.
Lần sau, khi đi ngang qua chỗ anh, chị dùng một ngón tay cù vào cạnh sườn anh. Chút nữa thì anh đánh rơi cây đèn giật mình vì ngạc nhiên. Liệu anh có hên cầm nguyên cây đèn, hay đặt nó xuống đất rồi cù trả lại? Anh lưỡng lự trước sự lựa chọn không lường trước này. Anh quyết định vẫn cầm cây đèn trên tay, nhăn nhở cười, cái cười mà ngay chính anh cũng không hiểu nổi, rồi anh ngượng nghịu và khật khưỡng bám theo người thiếu phụ nọ, lúc này lại bắt đầu cúi xuống xúc cát. Lúc anh tiến đến gần, bóng của chị đã hắt xuống, che kín cả bức tường cát.
- Ông đừng có làm làm gì. - Chị nói bằng một giọng trầm và hổn hển, lưng chị vẫn quay về phía anh - Em còn phải đào sáu thùng cát nữa thôi, cho đến khi người ta hạ thùng xuống.
Anh chững lại. Thật khó chịu khi thấy mình đã phải mất công mất sức để kiềm chế một hành động vu vơ. Tuy vậy anh thấy máu anh đang chạy rần rật trong cơ thể. Lớp cát bám vào da thịt như ngấm dần vào mạch máu làm anh dịu xuống.
- Nào, tôi đỡ chị một tay nhé?
- Ôi, tốt quá! Thật là không phải chút nào khi bắt ông làm việc ngay từ hôm đầu.
- Ngay từ hôm đầu là thế nào? Đừng quản ngại điều đó. Dù sao tôi cũng chỉ ở lại đêm nay thôi.
- Thế thôi ạ?
- Chị biết đấy, tôi không phải là kẻ vô công rồi nghề. Đưa tôi cái xẻng kia. Nào tiếp tục.
- Xin lỗi, cái xẻng của ông ở đằng kia cơ.
Quả thực một cái xẻng và hai cái thùng dầu lửa cũ có tay xách đã xếp ngay ngắn duới mái hiên, ngay cạnh lối đi. Những thứ này chắc đã đuợc ném xuống đây từ những nguời phía trên khi họ nói “cho người kia”. Việc chuẩn bị thật chu đáo và anh có cảm giác họ đã đoán trước thế nào anh cũng làm việc. Nhưng làm thế nào họ lại đoán trước điều đó? Chính anh cũng không biết được nữa là. Anh nghĩ, hình như họ đánh giá anh quá thấp thì phải. Cán xẻng làm bằng gỗ mục, dùng nhiều nên đen xỉn lại. Anh thấy không còn hào hứng giúp chị một tay nữa.
- Ô, họ đã thả thùng xuống nhà bên cạnh rồi!
Chị nói liến láu dường như không để ý đến thái độ lưỡng lự của anh. Giọng chị vui vẻ, chứa đựng vẻ tin cậy mà trước đó không có. Tiếng những người phía trên lúc nãy anh nghe vẳng lại từ xa, giờ đã ở ngay bên cạnh. Nhiều tiếng gọi ngắn, đều đều, lặp lại, tiếp theo là những tiếng thì thào nho nhỏ xen với những tiếng cười như cố nén rồi những tiếng gọi. Công việc tiến hành nhịp nhàng khiến anh cảm thấy hăng hái. Giữa một thế giới giản dị như thế này, để khách nghỉ nhờ một đêm xúc cát âu cũng là việc bình thường. Hơn nữa, ngồi không thì kể cũng kỳ cục. Anh dùng gót chân ấn một vết lõm vào trong cát để đặt cái đòn vào đó cho khỏi đổ.
- Tôi cho là đào bất cứ chỗ nào cũng được có đúng không?
- À... không hẳn bất cứ chỗ nào đâu.
- Thế ở đây có được không?
- Được ạ, nhưng ông cố đào ngay bên dưới bức tường dựng đứng này thì hơn.
- Lúc này nhà nào cũng phải dọn cát hả chị?
- Vâng, buổi tối dễ dọn hơn vì cát ẩm. Khi cát khô - Chị nói, mắt ngước nhìn trời - ông không thể biết được cát sẽ đổ ào xuống vào lúc nào và ở đâu.
Anh nhìn lên và thấy một bờ cát như đống tuyết, nhô ra khỏi thành vách.
- Nguy hiểm quá nhỉ?
- Thực ra cũng không có gì nguy hiểm - Chị nói, giọng vui vui, khác hẳn lúc nãy - Ông nhìn kìa! Bắt đầu có sương mù rồi đấy.
- Sương mù đâu?
Trong khi chị nói, những ngôi sao ngày càng mờ đi rất nhanh rồi khuất hẳn. Một dải sương mỏng bay là là ở trên, nơi bức tường cát gặp bầu trời.
- Ông thấy không, cát thấm sương đấy. Cát mặn sẽ cứng như trộn vữa khi đẫm sương.
- Tôi không thể nào tin được điều đó!
- Ồ, thật mà. Khi thủy triều rút khỏi bãi cát thì ngay cả xe vận tải hạng nặng cũng có thể đi được trên cát dễ dàng.
- Lạ thật!
- Đúng như thế đó. Vì vậy mà cái phần cát lồi ra ở trên kia mỗi đêm một lớn hơn. Những ngày gió đổi chiều, cát rơi xuống trên mặt ô như hôm nay đó. Vào những buổi chiều khi trời đẹp và khô, cát đổ xuống ào ào ngay lập tức. Nếu vô phúc nó đổ xuống không đúng chỗ... những chỗ nào mà cột chống yếu là chết đấy.
Đề tài câu chuyện của chị chỉ có chừng ấy. Tuy vậy mỗi khi chị nói chuyện gì hợp, giọng chị hoạt bát hẳn lên. Anh không thích chút nào những điều chị nói nhưng ở trong mỗi lời nói ấy chứa đựng một cái gì thực ấm áp, nó khiến anh nghĩ tới thân hình đang ẩn dưới bộ quần áo lao động tổi tàn kia. Và, với toàn bộ sức bình sinh, anh ấn cái xẻng có răng cưa vào lớp cát dưới chân và lặp đi lặp lại động tác ấy nhiều lần.
(còn tiếp)
Nguồn: Người đàn bà trong cồn cát. Tiểu thuyết của Kobo Abe. Bản tiếng Việt của Nguyễn Tuấn Khanh.
Bài viết liên quan
Nam Đế Vạn Xuân
Với hơn 500 trang, 15 hồi gay cấn, sinh động trong từng câu thoại của các nhân vật lịch sử, Tiểu thuyết Lịch sử Nam Đế Vạn Xuân nằm trong bộ Tiểu thuyết dài tập Vương triều tiền Lý của Nhà văn Phùng Văn Khai. Nam Đế Vạn Xuân tái hiện một cách sinh động lịch sử nước nhà xoay quanh triều đại của nhà nước Vạn Xuân (544-602) giúp chúng ta hiểu và tự hào hơn về lịch sử đánh giặc hào hùng của dân tộc. Với bộ nhân vật lịch sử đồ sộ của cả ta lẫn địch như: Lý Nam Đế, Tinh Thiều, Phạm Tu, Triệu Túc, Triệu Quang Phục, Phùng Thanh Hòa… hay Lương Vũ Đế, Vũ lâm hầu Tiêu Tư, Dương Phiêu, Lý Tắc… tạo nên rất nhiều tình tiết móc ngoặc, những cuộc đấu trí gay cấn hay những lời thoại sinh động của từng nhân vật. Nam Đế Vạn Xuân như một con tàu thời gian đưa ta ngược trở về từng quãng của lịch sử cách đây gần 1500 năm từ khi Lý Bí tu tập tại chùa Cổ Pháp đến thời điểm làm Giám quân ở Đức Châu và cuối cùng là đuổi giặc Lương lên ngôi tại điện Vạn Thọ. Đó cũng là lần đầu tiên Việt Nam có hoàng đế và niên hiệu Thiên Đức là niên hiệu riêng đầu tiên để chứng tỏ nước ta đã giành lại độc lập từ tay Trung Quốc.
Tìm kiếm
Lượt truy cập
- Tổng truy cập57,783,245
Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam
Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.
*Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...
Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.
WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)
Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.
The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.
Enjoy life, enjoy Arita experience!
Đọc nhiều nhất
- Phạm Hổ - Thơ viết cho nhi đồng
- Người của giang hồ (5): Lâm Chín ngón
- Thuật quan sát người (4)
- Người của giang hồ (11): Hải bánh
- Người của giang hồ (8): Huỳnh Tỳ
- Thuật quan sát người (2)
- Hoàng hôn của những thần tượng
- Vài nét về tục Cúng Mụ, đầy tháng, thôi nôi
- Vài tư liệu về Tục thờ Thánh Mẫu
- Chùm thơ về Tây Nguyên


