Tìm kiếm

Lượt truy cập

  • Tổng truy cập57,783,319

Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

     

    Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

    *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

    WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

    Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

    The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

    Enjoy life, enjoy Arita experience!

Tác giả

​Kobo Abe

Kobo Abe

(1924-1993)

Sinh ngày 07-03-1924 tại Tokyo; Abe bị chết vì bệnh tim ngày 22 tháng Giêng 1993, giữa lúc đang viết tiểu thuyết cuối cùng The Flying Man (Người bay) tác phẩm vừa mới xuất bản đã được giải thưởng truy tặng ngay năm 1993.

Tên thực là Kimifusa (“Kobo” là cách phát âm theo Hán tự của từ “Kimifusa”). Cha ông là bác sỹ tại một bệnh viện nằm trong trường Cao đẳng Y khoa Hoàng gia ở Manchuria.

Trước Murakami Haruki trên 20 năm, Abe Kobo đã được biết đến như một tác gia Nhật Bản nổi tiếng quốc tế về các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều ẩn dụ, ngụ ngôn, nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức của con người bị tha hoá, vong ngã trong xã hội đô thị càng ngày càng tiện lợi và máy móc. Trong nước Nhật, ông thuộc lớp nhà văn tiền vệ, được đánh giá là có tư tưởng và thủ pháp đi trước thời đại. Ngoài nước Nhật, nhà văn, nhà soạn kịch Abe Kobo được ví với Samuel Beckett và Eugène Ionesco.

Abe Kobo tên thật là Abe Kimifusa (Kobo là âm Hán-Nhật của chữ Kimifusa), sinh năm 1924 ở Tokyo nhưng theo cha là một y sĩ sang Mukden, lãnh thổ Mãn Châu lúc đó đang bị Nhật chiếm đóng. Từ nhỏ, Abe thích Toán và sưu tập côn trùng. Năm 1941, 17 tuổi, ông trở về Nhật và hai năm sau vào học Y khoa tại Đại học Đế quốc Tokyo. Ông tốt nghiệp năm 1948, nhưng không hành nghề y sĩ mà bắt đầu nghề văn, gia nhập nhóm văn học do Hamada Kiyoteru lãnh đạo, nhắm đến việc dung hợp những thủ pháp văn học thuộc trường phái Siêu thực với ý thức hệ Mác-xít.

Ông bắt đầu sáng tác từ 1943, nhưng đến 1947 mới tự xuất tiền túi xuất bản tập thơ đầu tay là "Mumei Shishu" (Tập thơ vô danh) . Năm sau đó, ông bắt đầu được biết tiếng nhờ tác phẩm "Owarishi michi no shirube ni" (Trên cột mốc ở đường cùng). Ông chịu ảnh hưởng của Samuel Beckett, Fyodor Dostoyevsky và nhất là Franz Kafka.

Những tác phẩm có tính cách tiền vệ của ông dần dần được giới độc giả trẻ ưa chuộng: "Dendrocacalia" (Cây dendrocacalia, 1949), "Akai mayu" (Cái kén đỏ, 1950), "Maho no choku" (Viên phấn phù thủy, 1950) đều lấy đề tài "hoá thân", biến hình của con người theo kiểu Kafka. Ảnh hưởng Kafka càng rõ rệt trong tác phẩm "Kabe-Esu Karuma shi no hanzai" (Bức tường - Tội của S. Karma, 1951) được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta hoá thành nhân cách và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh bị lôi ra toà án.

Tiểu thuyết "Suna no onna" (Người đàn bà nơi cồn cát, Woman in the Dunes) xuất bản năm 1962, được giải thưởng văn học Yomiuri, giúp ông xác lập chỗ đứng đặc biệt trên văn đàn Nhật Bản, sau này được dịch ra nhiều thứ tiếng, được giải thưởng Văn học Nước ngoài của Pháp, và quay thành phim được giải thưởng ở Đại hội Phim ảnh Cannes 1963 giúp Abe Kobo được chú ý và hâm mộ trên khắp thế giới. (Khán giả xem phim "Suna no onna" cho biết có cảm tưởng ngứa ngáy như có cát trên người họ, cát chảy ra từ tay áo họ, hay cảm thấy có vị cát lúc ăn ngô bung,...). Tác phẩm này kể chuyện một nhà giáo trong chuyến đi xa tìm bắt côn trùng, tình cờ trở thành tù nhân ở một làng hẻo lánh, được một người đàn bà sống đơn độc cho trú ngụ trong nhà, nhưng căn nhà ấy và cả làng bị cồn cát tràn xuống chôn vùi. Anh ta phải hợp sức cùng xúc bỏ cát không ngừng tràn đến hầu như trong tuyệt vọng, nhưng lúc có được cơ hội để trốn thoát, đã quyết định không bỏ trốn. Abe Kobo đã cho nhân vật của ông trải qua đủ thứ tình cảm, từ lòng tự hào, sợ hãi cho đến dục vọng và thất vọng, để thấm thía sự phi lý của thân phận con người.

Abe Kobo không chỉ là tiểu thuyết gia mà còn là nhà soạn kịch thành công. Thập niên 1960, ông hợp tác cùng Đạo diễn Teshigahara Hiroshi quay thành phim các tác phẩm văn học của ông, như "Otoshi ana" (The Pitfall, Lỗ hổng, 1962), "Suna no onna" (Woman in the Dunes, Người đàn bà nơi cồn cát, 1962), "Tanin no kao" (The Face of Another, Khuôn mặt kẻ khác, 1966),... Năm 1973, ông sáng lập trường dạy diễn xuất ở Tokyo để dạy các phương pháp trình diễn độc sáng của ông đồng thời là chỗ để ông đạo diễn kịch. Ban kịch do ông thành lập, Abe Kobo Studio đã sang Mỹ lưu diễn năm 1979. Và ông đã được đề cử vào Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Mỹ năm 1977.

Tính cách tiền vệ là đặc trưng mà cũng là dụng tâm của Abe Kobo. Ngay từ thời gia nhập nhóm văn học "Yoru no kai" (Hội ban đêm) của Hamada Kiyoteru chủ trương thúc tiến nghệ thuật tiền vệ, ông không ngừng nỗ lực khai phát những ý tưởng và phong cách mũi nhọn.

Nguyên tắc thực tiễn của ông là cố gắng lật ngược các quan niệm đã trở thành giáo điều hay thành kiến. Trong thời đại mà con người tiếp tục được xem là trung tâm của vũ trụ, linh trường số một, được đặt trên bệ cao cách biệt hẳn với mọi loài động vật khác, hay thực vật, khoáng vật, tác phẩm của ông lại tỏ rõ chủ trương đồng đẳng giữa các loài, và không những cùng đẳng cấp, mà còn có thể biến đổi, "hoá thân" từ loài này sang loài khác: con người biến thành động vật khác, thực vật hay đồ vật, và ngược lại, các loài khác hoá thành nhân cách như con người. Trong lúc ý thức được đề cao, thì ông lại chủ trương nhục thể chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức. Đối nghịch với các chủ nghĩa hiện thực, ông cho rằng hiện thực chỉ có ý nghĩa hay giá trị khi đối chiếu với viễn ảnh tương lai là sản phẩm đáng đề cao của trí tưởng tượng, nhất là trong trường hợp các hoạt động trí tuệ, như văn học nghệ thuật. Và tự do chỉ có thật khi cá thể thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng.

Abe Kobo chuộng lối văn khô khan nhưng hàm súc và khoa học, đối lập với lối văn ướt át, thấm đẫm tình cảm và chủ quan vẫn tiếp tục được ưa chuộng thời bấy giờ. Ông không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, chủ nghĩa hiện sinh, hiện thực huyền ảo.

Đề tài của Abe Kobo là sự cô lập, tha hoá của con người, áp lực của xã hội khiến con người vong thân, đánh mất căn cước bản ngã, cảm thấy khó khăn gần như bất khả trong việc truyền đạt tâm tình, suy nghĩ, với người khác, khiến cho toàn bộ xã hội trở thành thế giới quái gở, kỳ dị đối với cá nhân. Phản ứng với tình cảnh như thế, chủ quan của con người lại trở thành một vũ khí tự vệ tồi tệ, ngược lại giam hãm con người vào hộp kín, dựng lên những bức tường ngăn trở việc nhận thức sự thật bên ngoài. Nội tâm cách ly với ngoại giới, ý thức của con người lạc vào mê cung, sự việc gì xảy ra cũng có đối-ảnh vừa đồng nhất vừa đối nghịch, như hình phản chiếu trong tấm gương, khó mà phân định được đâu là thật đâu là hư, người nào là kẻ chạy trốn, người nào là kẻ lùng bắt (trong truyện ngắn "Yuwakusha - Gã cò mồi"), người tìm bắt trở thành tòng phạm của kẻ chạy trốn (trong truyện ngắn "Yume no heishi - Người lính trong mơ"), người Hoả tinh có hình dáng in hệt người (Địa cầu), hay chỉ là người (Địa cầu) giả dạng người Hoả tinh (trong truyện ngắn "Shisha - Sứ giả"), càng cố tránh ra xa lại càng làm cho mình dính chặt thêm vào sự kiện (trong truyện ngắn "Mukankei na shi - Một cái chết vô can"),...... Để tìm cho ra sự thật, con người phải gắng nhìn qua bức tường ngăn chặn ý thức ấy (không khác gì những cao tăng diện bích), hay đục lỗ trên hộp kín giam hãm mình mà gắng nhìn ra ngoại giới. Trên bức tường ngăn trở ấy, tác phẩm của Abe Kobo là những nét vẽ nguệch ngoạc có phần tinh quái cố gắng trình bày những sự việc xảy ra phía bên kia, bằng "viên phấn phù thủy", ai biết đâu là ranh giới giữa tưởng tượng và hiện thực?

Tiểu thuyết và kịch bản của Abe Kobo được xây dựng trên những quan sát tinh tế đặc trưng của một y sĩ giải phẫu, chữ nghĩa uyên bác của một nhà khoa học, và biểu hiện độc đáo. Mặt khác, có người phê bình văn phong của ông là khô cứng, khó khăn, phản ánh khuynh hướng đặt trọng tâm ở tư tưởng hơn là phong cách biểu hiện. Là một y sĩ, Abe Kobo giải thích những vấn đề tâm sinh lý, ý thức và tiềm thức, bằng cả những ẩn dụ, ngụ ngôn, cả những dạng chuyển hoá (hay "hoá thân", hay "biến hình") có thể xem là hình thức ẩn dụ hay ngụ ngôn cao nhất, để cố gắng truyền đạt đến độc giả một cách cụ thể những hiện tượng có thực ở vùng sâu kín trong hay dưới tầng ý thức. Ông chú trọng đến ảnh hưởng của tiềm thức và vô thức trên hành vi của con người: "Nói gì đi nữa, những quảng cáo kích thích vào tiềm thức người ta thì có tác dụng mạnh nhất. Để được như thế, sáng kiến quảng cáo cũng phải nảy sinh từ vô thức mới có được sức thuyết phục" (trong truyện ngắn "Kake - Đánh cuộc").

Abe Kobo mất năm 1993 vì bệnh tim, để lại một sự nghiệp văn học xuất chúng trải dài 40 năm.

Ngoài "Suna no onna" (Người đàn bà nơi cồn cát), Abe Kobo còn được biết đến qua các tác phẩm tiêu biểu như:

"Daiyon kampyoki" (Inter Ice Age 4, Thời kỳ băng hà thứ tư), đăng thành nhiều kỳ trên tạp chí Sekai (Thế giới) từ 1958 đến 1959, có bối cảnh nước Nhật bị đe doạ chìm ngập dưới nước tan chảy từ băng sơn Bắc cực, nhân vật chính khai phát một chương trình máy tính dự đoán việc chế tạo những đứa trẻ có cơ thể được thiết kế hay thay đổi cho thích ứng với đời sống trong nước biển. Ông chống đối việc này nhưng đứa con sắp sinh của ông lại bị chọn vào kế hoạch thay đổi cấu tạo ấy. Truyện đặt vấn đề đạo đức trong nghiên cứu khoa học, và khái niệm ý chí tự do của con người.

"Hako otoko" (1974, The Box Man, Người đàn ông trong hộp giấy): nhân vật chính rời sinh hoạt thường ngày đầy âu lo của ông, bắt đầu quan sát thế giới quái kỳ ở Tokyo qua lỗ dòm cắt trên hộp giấy mà ông ta đội lên đầu.

Trong kịch bản "Tomodachi" (1967, Friends, Bạn bè, tác phẩm được giải Tanizaki Jun-ichiro), phòng trọ của một tư chức bị một gia đình không quen biết chiếm đóng, sinh hoạt của anh ta bị họ chi phối và chính anh cuối cùng bị một cô con gái của gia đình ấy giết chết. Họ rêu rao dân chủ, tự xưng là những người cống hiến cuộc đời cho việc thiện, giúp ích cho xã hội, nhưng thực tế chỉ thi hành toàn là những hành vi bóc lột, phá hoại tàn nhẫn. Vở kịch này được trình diễn vào thời cao điểm của chiến tranh Việt Nam, nên có nhà bình luận cho là ngụ ngôn về sự can thiệp hay xâm nhập của Mỹ.

"Tanin no kao" (1964, The Face of Another, Khuôn mặt kẻ khác) là chuyện một người đàn ông bị tai nạn trong phòng thí nghiệm phá nát gương mặt mình, đã bí mật nhờ phẫu thuật sửa lại theo khuôn mẫu mà vợ ông ta vẫn hằng cho là khuôn mặt đàn ông lý tưởng, mà không cho vợ biết, rồi thử quyến dụ vợ ông bằng gương mặt mới xem sao. Một chuyện ngụ ngôn tân thời về ước vọng của đàn ông muốn kiếm cho mình một căn cước khác.

"Kangaruu no-to" (1991, Kangaroo Notebook, Sổ tay Kangaroo) kể chuyện một tư chức đột nhiên thấy có mầm cây mọc ra từ chân mình, vào bệnh viện lại được chiếc giường bệnh biết suy nghĩ và tự ý quyết định đưa ông ta qua nhiều nơi chốn siêu thực, như mê cung của xã hội khắc nghiệt trong đó con người bị cô lập và đánh mất bản ngã. (Tương truyền rằng với tác phẩm "Kangaruu no-to", Abe Kobo là tác gia Nhật Bản đầu tiên viết văn trên máy tính).

Các tác phẩm sau đây đã được dịch ra tiếng Anh (người dịch):

* Inter Ice Age 4, "Daiyon kampyo?ki" (Thời kỳ băng hà thứ tư) 1959 (E. Dale Saunders)

* Woman in the Dunes, "Suna no onna" (Người đàn bà nơi cồn cát) 1962 (E. Dale Saunders)

* The Face of Another, "Tanin no kao" (Khuôn mặt kẻ khác) 1964 (E. Dale Saunders)

* The Ruined Map, "Moetsukita chizu" (Bản đồ bị thiêu rụi) 1967 (E. Dale Saunders)

* The Box Man, "Hako otoko" (Người đàn ông trong hộp giấy) 1973 (E. Dale Saunders)

* Kangaroo Notebook, "Kangaruu no-to" (Sổ tay Kangaroo) 1973-1977 (Maryellen Toman Mori)

* Secret Rendezvous, "Mikkai" (Hò hẹn bí mật) 1977 (Juliet Winters Carpenter)

* The Ark Sakura, "Hakobune Sakura-maru" (Thuyền cứu thế Sakura) 1984 (Juliet Winters Carpenter)

* Beyond the Curve (Qua khỏi khúc ngoặt, tập truyện) 1990 (Juliet Winters Carpenter)

* Three Plays by Kobo Abe, (Ba vở kịch của Abe Kobo, kịch bản) 1993 (Donald Keene)

* Friends, "Tomodachi" (Bạn bè, kịch bản) 1967 (Donald Keene).

Ở Việt Nam, các tác phẩm của Abe Kobo như "Kabe Esu Karuma shi no hanzai" (Bức tường - Tội của S. Karma), "Akai mayu" (Cái kén đỏ) gồm 4 truyện ngắn "Cái kén đỏ", "Viên phấn phù thủy", "Lụt lội" và "Sự nghiệp"),... đã được Dịch giả Lê Ngọc Thảo chuyển ngữ trực tiếp từ nguyên tác tiếng Nhật năm 2004.

Abe Kobo đã đi trước thời đại với những tư tưởng và phong cách cho đến nay vẫn còn có tính cách tiền vệ. Nhiều nhà phê bình trên thế giới cho rằng ông là một trong số ít tác gia Nhật Bản xứng đáng được xem là tác gia tiêu biểu của thế kỷ 20.

Sydney 01-2008

Phạm Vũ Thịnh

Tham khảo:

[1] Abe Kobo : http://www.ibiblio.org/abekobo/

[2] Abe Kobo : http://www.washburn.edu/reference/bridge24/Abe.html

[3] Kobo Abe (1924-1993) : http://www.kirjasto.sci.fi/koboabe.htm

[4] Kobo Abe : Modernity and Isolation in a Changing Japan, by Susan Llorens : http://www.insite-tokyo.com/column/susan/index.html

[5] Japanese Culture: Kobo Abe, by Michael Russell : http://www.chinatownconnection.com/kobo-abe.htm

[6] Watanabe Hiroshi : bài Giải thuyết cho tập truyện "R62-go no hatsumei - Namari no tamago" ("Phát minh người máy R62 - Quả trứng bằng chì").

[7] Shimizu Toru : bài Giải thuyết cho tập truyện "Mukankei na shi - Toki no gake" ("Một cái chết vô can - Vách thời gian").

 

*

Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro... ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ do nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hoá đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941 Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đấy Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhất các kỹ thuật của Chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist.

Ngay từ năm 1943 Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami tác giả Rừng Na-uy viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn  phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách . Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ văn học của ông: Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng Kafka càng rõ rệt trong tác phẩm Kabe - Esu Karuma shino hanzai (Bức tường - tội lỗi của S.Karma, 1951). Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hoá thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh bị toà án lôi ra phán xử. Năm 1947 Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chỉ thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết Owarishi michi no shirube ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của đảng này.

Những tác phẩm mang tính cách trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, “Akai mayu” (1950, Cái kén đỏ), “Kabe” (1951) và “S.Karuma - Shi no hanzai” (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập tới, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiểu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant - garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không giống thực tế và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Daiyon kampyoki  (1959), Moetsukita chizu (1967, Tấm bản đồ rách), Mikkai (1977) và Hako otoko (1974, Người đàn ông trong chiếc hộp).

Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Woman in the Dunes, (1962, Người đàn bà trong cồn cát) và The Face of Another (1964, Khuôn mặt người khác). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều ẩn dụ, nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hoá, vong ngã, trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã được ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muôn loài, tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài. không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hoá thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thể chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thể thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.

Trong khi Murakami và Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe (1935 - 2007), Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998 có viết: “Lớp nhà văn này đã tích luỹ trong mình  cảm nghĩ về thực trạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”.

Người đàn bà trong cồn cát, người đọc khó mà phân định được thực hư, người nào là kẻ chạy trốn, người nào là kể lùng bắt, ai biết đâu là ranh giới giữa hư ảo và hiện thực, Kobo Abe đã giải thích những vấn đề tâm sinh lý, ý thức và tiềm thức... để cố gắng truyền đạt đến người đọc một cách cụ thể những hiện tượng có thực ở vùng sâu kín trong hay dưới tầng ý thức. Ông chú trọng đến ảnh hưởng của tiềm thức và vô thức đối với hành vi của con người.

Qua Người đàn bà trong cồn cát, Abe đã sử dụng mọi dạng cảm xúc của con người, từ niềm tự hào và nỗi sợ hãi tới những khát khao tình dục và cả nỗi thất bại ê chề - tất cả, tất cả đều dồn vào nhân vật chính trong câu chuyện, rồi thì qua đó mặc cho bạn đọc tiến hành một sự tự nhận thức (self - awareness) về sự phi lý của thân phận con người.(1) *

Tác phẩm Người đàn bà trong cồn cát ngay lập tức đã cuốn hút đạo diễn điện ảnh Teshigahara Hiroshi , cuốn phim của ông dựa trên tác phẩm kể trên đã giành được thành công to lớn vào năm 1963. Tác phẩm điện ảnh này đoạt được giải thưởng đặc biệt tại Liên hoan Phim Cannes. Diễn viên Kyoko Kishida, người khởi nghiệp điện ảnh qua vai thiếu phụ trẻ trong tác phẩm này, sau đấy đã trở nên tiếng nổi trong phim Moomin và một số phim khác. Đạo diễn Teshigahara Hiroshi còn cộng tác với Abe  để dựng phim cho hai tác phẩm The Pitfall (1962, Cạm bẫy khó lường) và The Face of Another (1966, Khuôn mặt người khác).

Abe còn sáng tác một số vở kịch,và điều hành một công ty biểu diễn do ông tổ chức ở Tokyo. Các chủ đề về trạng thái cô độc và bị xa lánh, ghét bỏ trong các vở kịch chẳng hạn Friends (1967) và The Suitcase (1973) của ông được diễn trên sân khấu có cái gì đó rất gần gũi với các tác phẩm của Samuel Beckett và Harold Pinter. Sau khi nhà văn danh tiếng Yukio Mishima qua đời, Abe được xem như nhà soạn kịch chủ chốt ở Nhật vào những năm 1970. Nhà hát của ông, còn có tên Abe Kobo Studio được mời lưu diễn tại New York City năm 1979. Abe bị chết vì bệnh tim ngày 22 tháng giêng 1993, giữa lúc đang viết tiểu thuyết cuối cùng The Flying Man (Người bay) tác phẩm vừa mới xuất bản đã được giải thưởng truy tặng ngay năm 1993.

Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe  được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX.

Theo Phạm Vũ Thịnh và Nguyễn Tuấn Khanh

___

Tài liệu tham khảo:

1. Thomas Rimes, A Reader’s Guide to Japanese Literature, 1999.

2.  K. Tsuruta and T.Swann (ed), Approaches to the Modern Jpanaese Novel, 1967.

3. Tracy Chevalier (ed), Contemporary World Witers, 1993.

4. Những tác phẩm của Kobo Abe đã được dịch sang tiếng Anh:

* The Woman in the Dunes (1964)

* The Face of Another (1966)

* The Ruined Map (1969)

* Inter Ice Age 4 (1970)

* The Box Man (1974)

* Secret Rendezvous (1979)

* The Ark Sakura (1988)

* Kangaroo Notebook (1996)

Tìm kiếm

Lượt truy cập

  • Tổng truy cập57,783,319

Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

     

    Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

    *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

    WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

    Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

    The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

    Enjoy life, enjoy Arita experience!