Tìm kiếm

Lượt truy cập

  • Tổng truy cập57,915,625

Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

     

    Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

    *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

    WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

    Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

    The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

    Enjoy life, enjoy Arita experience!

Tiểu thuyết

Hoài niệm sói

Giả Bình Ao

  • Thứ ba, 18:39 Ngày 23/12/2008
  • Hoài niệm sói

    Tôi bực tức hừ một tiếng , anh ta im bặt, bắt đầu rửa mặt, chải đầu cho đạo sĩ.  Vừa xong thì cậu dẫn thầy lang bản nhễ nhại mồ hôi đi  vào, thấy vậy, cậu rớt nước mắt, bảo thầy lang xuống bản báo cho dân chúng lên tổ chức đám tang cho đạo sĩ. 

    Nhưng trong đêm ấy, ở dưới núi không có ai lên, chúng tôi không biết thi thể đạo sĩ già đưa vào quan tài đem chôn như người thường, hay là đạo giáo có qui ước riêng của đạo giáo, có cách an táng khác, liền ngồi trong chùa chờ đợi.  Suốt mấy tiếng đồng hồ, tôi đã hờ lên bài hát đám ma học ở dọc đường.  Cậu tôi cứ nghe, nghe mãi, rồi cũng hát theo, “Sống ở trên đời có gì tốt đâu, nói một tiếng chết là chết luôn, họ hàng bè bạn đều không biết.  Họ hàng bè bạn biết được thì người chết đã đến cầu Nai Hà, cõi âm không giống cầu cõi dương, rộng bảy tấc, cao muôn trượng, gió to thổi cứ đung đa đung đưa, gió nhẹ thổi cũng tròng trà tròng trành, hai đầu đều đóng đinh đòng, ở giữa bôi mỡ trơn, người chết có phúc thì qua được cầu, người chết vô phúc thì ngã cầu, buồi sáng qua cầu cầu vẫn còn, buổi tối qua cầu cầu đã rút, người chết quay đầu vẫy vẫy tay, con đường âm dương đã gãy.

    Chúng tôi càng hát càng cảm thấy thê lương, nước mắt tuôn rơi lã chã.  Mục Lơi không hát, nhưng từ đầu chí cuối anh ta không dám nói câu nào bất kính.  Sang nửa đêm về sáng, có tiếng động ở ngoài cửa, tôi cứ tưởng người ở dưới bản lên, nhìn qua cửa sổ thì lại là một con sói.  Tôi bảo: Sói! Cậu và Mục Lôi đều ngạc nhiên, bám vào bệ cửa sổ nhìn ra.  Cậu tôi đột nhiên nước mắt dàn dụa, khẽ nói:

    Sói đến viếng đạo sĩ!

    Đó là con sói to lên nhọt mấy hôm trước.  Nó ngồi xổm ở cửa chùa khóc hu hu một lúc,  tiếng hu hu rất đục, giống như một cơn gió nhẹ thổi qua, khi nhìn kỹ thì trong rừng cây bách ở cạnh bãi cỏ có năm sáu đôi chấm sáng màu xanh lè đang nhấp nháy, một bày sói đang ở đó.  Ngần ấy con sói tại sao cứ ở ngoài xa không chịu lại gần, tôi chưa kịp nghĩ nhiều, thì con sói to ở ngoài cửa liền cào cửa, tiếng lạo xạo vang lên.  Nó quay người lại, giơ chân sau hất đất, đất rơi trên cửa ra vào và cửa sổ.  Tôi không động đậy, đồng thời ấn mạnh cậu cùng Mục Lôi.  Sói lại đá đất hai lần nữa, sói quay thân lại, ngẩng cao đầu, sau đó cúi xuống.  Tôi nhìn thấy nó ngậm một hòn đá ở mồm, để ở cửa rồi quay đi.

    Cậu tôi mở cửa, nhặt hòn đá và kêu lên:

    Ngọc Kim hương!

    Tôi và Mục Lôi xúm đến xem, đúng là ngọc kim hương.  Tôi chợt hiểu ra, lúc còn sống đạo sĩ già đã nói dối, ngọc kim hương của ngài chắc chắn là sói đã cho ngài, hoặc là sói dẫn ngài đi nhặt,  còn nguồn gốc của ngọc kim hương mà ngài kể hoàn toàn là bịa đặt.  Bây giờ sói lại đến cảm ơn và phúng viếng ngài, lại đem đến cho ngàu một hòn ngọc kim hương nhỏ, chắc chắn sói biết ngọc kim hương ở chổ nào.  Chúng tôi vội vàng đuổi theo sói, đuổi đến tận dưới núi đá đỏ vẫn không đuổi kịp sói, trong đêm tĩnh mịch chỉ có chúng tôi và cái bóng chúng tôi in trên đất sáng trăng.

    Hôm sau có bốn ngừơi ở dưới núi lên, trong đó có trưởng thôn.  Nhìn thấy tôi và Mục Lôi, trưởng thôn nói phủ đầu:

    Hư, các anh còn nói dối tôi, tôi bào các anh đến kiếm ngọc kim hương, các anh còn bảo không, thế nào có mua được ngọc kim hương không?

    Trước đây còn có thiện cảm với trưởng thôn, bây giờ thì lại thấy ngang tai trái mắt, cái đầu là cái đầu mõ, cái mũi thì mỏ diều hâu, trong khe răng nhét đầy bột ngô.  Tôi nói:

    Ông đã lừa lấy hết ngọc kim hương trong tay, chúng tôi còn kiếm ở đâu ra? 

    Ông ta cứng họng lảng tránh, chỉ huy thu dọn di vật của đạo sĩ già, liền dũ xem từng thứ rách nát ở trong chùa xếp vào một đống, sau đó chắp tay ra đằng sau rà soát tường vách, thậm chí còn gõ gõ xem có gắn lớp gì vào không.

    Anh đào cả nền chùa lên mà xem – cậu tôi bảo – biết đâu có chôn ngọc kim hương!

    Trưởng thôn cười hì hì bảo:

    Được ngọc kim hương là phải có duyên phận chứ!

    Nhưng ông ta vẫn kiểm tra hậu môn đạo sĩ già, lại còn cậy mồm ngài ra xem.

    Đã có người của bản lo liệu chúng tôi rời khỏi chùa Đá Đỏ.  Đường xuống núi đi mất đứt nửa ngày, thật là đi bước nào níu chân bước ấy.  Tôi thấy nhớ đạo sĩ già, qua ngài tôi chứng kiến được một ông già lương thiện bảo vệ được sói, cũng để tôi có được dịp chụp ảnh cho năm con sói.  Tôi quì xuống nhìn về hướng chùa Đá Đỏ cúi đầu vái lạy.  Cậu tôi cứ đứng tại chỗ, chờ tôi vái lạy xong, liền đòi lại viên ngọc kim hương đã tặng tôi, song trao cho tôi viên ngọc kim hương sói tha đến.  Mục Lôi có phần nào chạnh lòng, cúi đầu đá một hòn đá trên đường, anh ta bảo tôi:  Đến huyện phố anh bảo thợ cửa hàng đá qúi xẻ đôi đục lỗ, anh đeo một cái, tôi cũng đeo một cái.

    Dời khỏi chùa Đá Đỏ, bước tới nên đi dâu chúng tôi suy tính mãi.  Theo tình hình cậu tôi nắm được khi đi tổng điều tra, thì ở Lý Gia trại, huyện Trấn An có con sói số bốn, ở vùng Hoàng Bách, huyện Sơn Dương có con sói số mười và mười lăm, còn ở Hùng Nhĩ Xuyên có hai con sói.  Tuy sói có khu vực hoạt động cố định, nhưng cũng thường di chuyển, nhất là ở phố huyện cũ đã thấy con sói ở vùng núi Đại Thuận, còn ở chùa Đá Đỏ lại gặp con sói ở vùng núi Nhị Long. Phạm vi di chuyển lớn số lượng nhiều, ngay đến cậu tôi cũng cảm thấy ngạc nhiên.  Rốt cuộc thì đi Hoàng Bách Ô hay đến Lý Gia Trại, ai cũng không dám chắc đi đến đó liệu có gặp sói không.  Mà Hùng Nhĩ Xuyên lại là nơi gần nhất trong ba nơi đó, cứ đến Hùng Nhĩ Xuyên trước đã.

    Hùng Nhĩ Xuyên là quê hương của cậu tôi, quê hương này từ phố huyện cũ dời đến, dân bản dường như có quan hệ thần bí với sói từ khi mới đẻ ra.  Cậu tôi giới thiệu, khi dân bản sống ở huyện phố cũ, thì phố huyện cũ là khu vực sói tàn phá nặng nề nhất, nên đã di chuyển đến Hùng Nhĩ Xuyên dưới núi.  Hùng Nhĩ Xuyên lại là nơi sói luơn luơn tồn tại, càng ở nơi có sói, càng sinh ra những cao thủ săn sói, mà càng có cao thủ săn sói, thì sói càng con trước ngã con sau xông lên.  Tôi cười bảo: Đấy là tương sinh tương khắc.  Mục Lôi bảo theo anh nói dường như hiện nay không còn sói nữa, những cao thủ săn sói chúng tôi nên chết hết phải không?  Tôi nói: Ồ, anh cũng coi là cao thủ ư?  Mục Lôi hỏi: Cho đến bây giờ anh vẫn không coi tôi là cao thủ ư?  Tôpi bảo:  Trên đời thường là trong lĩnh vực không thể khám chữa được bệnh, thì có nhiều thầy thuốc nổi tiếng nhất.  Mục Lôi bĩu môi phớt bơ tôi.  Lhi chúng tôi đi đến một thị trấn nhỏ có tên là Thạch Môn, đó là nơi sản xuất ngọc Thạch môn có tiếng tăm ở Thương Châu.  Trên phố có mấy xưởng gia công đồ ngọc.  Mục Lôi không quên chuyện xẻ đôi ngọc kim hương, thế là đã chia đôi mỗi anh đeo một dây vào cổ.  Tôi còn tũm tỉm cười bảo Mục Lôi:

    Anh đừng đem nó cho gái đấy nhé!

    Nhưng vào quán cơm ăn xong, anh ta một mình đi lung tung trên phố, cậu tôi bực dọc chửi một thôi một hồi.  Hai cậu cháu chia nhau mỗi người tìm một ngã, quả nhiên anh ta đang ngồi nói cười toe toét với ba cô gái ở một cửa hiệu làm đầu chỉnh hình, lại còn nắm tay một cô béo hú xem đường vân.  Cậu tôi sa sầm nét mặt hỏi:

    Anh làm gì vậy?

    Mục Lôi đáp:

    Xem tướng tay, cô này vốn giàu sang phú qúi, chỉ tiếc sinh không gặp thời, nếu là vào đời Đường sẽ được vào cung làm hoàng hậu.

    Tôi chộp cánh tay anh ta kéo đi.  Anh ta bảo:

    Thưa Bí thư, xem tướng tay là làm công tác dân vận, các cô ấy nói đến sói đấy!

    Tôi bảo:

    Gặp sói gái hả?

    Anh ta nói:

    Nói đến sói thật mà, anh trai cô béo này hôm qua mới từ Lý Gia Trại về nhà, nói là ở Lý Gia Trại có người bắt giết sói, khi lột da sói, còn lột ra một con sói con cơ mà!

    Mục Lôi nói thật giả thế nào không biết, nhưng cậu tôi đã thay đổi kế hoạch hành động.  Chúng tôi liền đến thẳng Lý Gia Trại.  Đến Lý Gia Trại tìm hỏi một thành vêin đội săn bắt sói, thì có truyện này thật, do một đội viên khác họ Thái làm.  Sau khi giải tán đội săn bắt sói, anh chàng họ Thái đã lén lút buôn bán da sói, tệ hơn là có lần buôn bán cá người bị công an bắt, đến khám nhà, lại phát hiện ra một tấm da sói mới nguyên, anh ta nhận đã bắt giết một con sói mẹ đang chữa.  Cậu tôi không muốn đi gặp Thái, chỉ được xem tấm ảnh  da sói ấy trong hồ sơ phạm tội của anh ta ở Đồn Công an, cậu nhận ra chính là con sói số bốn, liền vội vàng dẫn chúng tôi đi Hùng nhĩ Xuyên.

    Trong tưởng tượng của tôi, cũng như nhựng bản làng nhỏ chúng tôi đã đi qua, Hùng Nhĩ Xuyên đất hẹp, núi mù cây tạp,nhưng nào ngờ Hùng Nhĩ Xuyên lại là một lòng chảo khá lớn.  Sông Ngàn Hoa chảy từ Tây sang Đông qua một nơi gọi là Đèo Trăng sáng, tự dưng quay về hướng Nam, lượng một hình cánh cung lớn đầy đặn,lại từ chân núi trái Phong hỏa đài, chảy về hướng tây, còn đường cái thì ở chính giữa lòng chảo, đi ngang qua chỗ giao tiếp một nữa là bãi một nữa là cao nguyên.  Các thôn bản giống như cánh hoa đào mà trung tâm là một thôn lớn ở cạnh đường cái, trên cao nguyên có hai bản nhỏ phân tán, trên đồng bãi cũng ở phân tán hai bản nhỏ.  Nhà cậu ở thôn Đoài trên cao nguyên.

    Thôn Đoài và tôn Đông cách nhau một khe núi, thật ra là một con sông, ngày mưa sông có nước, ngày thường khô cạn.  Trên bờ sông có một gác chuông dạng nhà đế pháo.  Sau này tôi mới biết, người trong thôn đầu tiên, khi di chuyển từ phố huyện cũ đến đây đã khiêng cả cái chuông  trên gác chuông ở phố huyện cũ và xây một gác chuông ở đây theo kiểu thiết kế cũ để chứng tỏ mình là người đã từng ở phố huyện.  Nhưng mười năm trước, nhà gác sập, chuông vùi trong đất đã vài năm.  Sau khi ban bố điều lệ cấm bắt giết sói, ở đây đã xảy ra nhiều chuyện lạ.  Trong một đêm đột nhiên xuất hiện nhiều giày dép, quần áo trẻ con ở dưới gác chuông, còn có cả đồ chơi và đầu vú cao su.  Tất cả thứ này đều là đồ dùng của các trẻ em thành phố thị trấn.  Người ta xôn xao bàn tán, có kẻ nói đây là việc sói làm, nhưng không một ai phát hiện có sói ra vào ở chung quanh. Sau đó vài tháng, mới đầu có dịch lơn, và trâu bò lở mồm long móng, chết hàng loạt rất nhanh, về sau một số đội viên đội săn bắt sói và một số người không thuộc đội săn bắt sói, nhưng vẫn săn được sói mắc phải các chứng bệnh lạ lùng.  Tiếp đến nữa là ở thôn đông trên bãi cóba gia đình cháy nhà, ở thôn giữa có lò gạch ngói bị sập, dân bản ầm ĩ lên đòi xây gác chuông đề phong thủy.  Nhưng trong thôn không có thợ mộc, thợ đá, họ đã dựng lên ngôi nhà dạng để pháo này bằng tay nghề quen làm lầu cổng và lầu bia, treo chuông lên đánh suốt ba ngày ba đêm.  Cậu tôi dẫn chúng tôi đến lòng chão, không về thẳng nhà, từ dưới gác chuông đi qua con sông cạn, lên phía bắc.  Trên khoảnh núi đất ở đó mồ mã dày đặc, cậu tôi bảo phải đến cúi đầy vái lạy phần mộ ông ngoại trước đã.

    Mộ ông ngoại xây trên đỉnh núi nhỏ.  Mộ của người ta chung quanh đều là cây bách ngàn cành, mộ ông ngoại mọc đầy gai răng sói.  Cậu đứng ở đầu mộ nói:

    Bố ơi, con dẫn về cho bố một người thành phố!

    Sau đó cậu cứ đứng trơ trơ tại chỗ, không quì lạy, cũng không cầu khấn.Tôi cúi lạy ba cái, ngồi xuống đám cỏ hoang trước mộ, câu truyện về ông ngoại lướt qua trong đầu: Bây giờ, một thế hệ anh huỳng đã sống chung với đất như thế này, gai răng sói, nó đã từng là một tượng trưng duy nhất của người thợ săn có phải không?  Trong bờ Cam Câu, có người đang bắt gà rừng, gà rừng béo mũm mĩm, trên thân toàn chấm rỗ đen, ngu ngốc đần độn hết chỗ nói. Chúng đậu ở bờ bắc khe núi, bị người ta xua,bay đỗ ở bờ nam, lại bị người ta xua, bay sang bờ bắc, cứ bay đi bay lại không bao giờ nghĩ.  Một bầy mười con gà rừng có bốn con cứ bay mãi bay hoài trên không trung, đứt hơi mà chết, rơi thẳng xuống như một hòn đá.  Một tiếng gọi the thé đang vọng đến: Anh Phó Sơn, anh Phó Sơn, đã về chưa, tối sang nhà ăn gà rừng hầm đậu phụ nhé!

    Từ nghĩa địa về đến thôn Đoài trên cao nguyên đường bùn loãng đi lại trong mùa mưa đã khô cứng đầy ổ gà, chân chúng tôi bước trật đường.  Ca6u không dẫn tôi và mục Lôi đi mở cỗng nhà cậu, có lẽ gia đình độc thân nồi bếp lạnh tanh, chẳng có thứ gì, cậu chỉ giơ tay chỉ chổ rồi dẫn sang nhà anh họ.  Bây giờ tôi mới biết cậu còn có người anh họ mà tôi phải gọi là cậu lớn.  Cổnh nhà cậu lớn đang đóng, nhưng là khoá giả, cậu chỉ ngoáy một cái là khoá mở, nhưng cửa ra vào nhà hoàn toàn không có khoá, chỉ xỏ một cái chổi lông gà vào còng cửa.  Tôi đứng ở cửa ra vào nhà đã mở toang hai cánh nhìn chuồng gà, lán cối xay ở trong sân, cây đào cây lê, làn khoai lang thái phơi khô để trên giá đầu tường sân, những dây thép dĩ, giầy rách, búi tóc nhét trong khe tường nhà, rồi nhìn đến tủ bức bàn, ghế dèai, bàn bát tiên, giường lò ở trong nhà và hộo thuốc lào dây bên vỏ ngô để ở trên bời tường đất.  Tôi ngồi trên chiếc ghế gỗ đào hạch kiểu cũ, thầm nghĩ biết bao nhiêu lớp người đã từng kéo lúa giã gạo ở đây.  Cậu hỏi:

    Anh thấy ở đây lạ lắm nhỉ?

    Tôi đáp:

    Cháu chưa bao giờ đến đây thưa cậu!

    Anh chưa bao giờ đến đây, nhưng anh đã bao giờ nằm chiêm bao đến nơi tương tự thế này không?

    … Tôi lắc đầu.

    Ồ! – cậu khẽ thở dài, ánh mắt hơi tối lại.  

    Tôi hoàn toàn hiểu ý cậu.  Chắc chắn cậu cho rằng gốc gác tôi không ở đây, cháu ngoại rút cuộc vẫn là cháu ngoại.

    Chúng tôi đun nước pha trà, đang uống thì cậu lớn về.  Cậu lớn đi đào xương rồng ở khe núi trước thôn, lúc đầu tôi cứ tưởng ở khe eo núi có xương rồng thật cơ, nghe cậu lớn nói mới vỡ lẽ, thì ra ở đất hai bên eo khe núi có nhiều hoá thạch sinh vật cổ, như xương voi lớn, xương bò rừng, xương cá, xương hươu, những hoá thạch này không thể hoá thành đá thật, mà còn có thể lấy dao con cạo ra bột.  Trong thôn có ngưới thỉnh thoảng cắt cỏ liềm bập vào tay, lấy thứ bột này bôi vào, thấy đỡ đau, cầm máu rất nhanh, vậy là mấy chục năm nay, dân làng đi đào hóa thạch về làm thuốc, đau ở ngoài thìbôi, đau ở trong thì uống. Họ đã gọi tất tần tật các hoá thạch bằng cái tên chung xương rồng.  Xương rồng có giá trị chữa bệnh, tôi đã có thêm một kiến thức, nhưng thú vị hơn, nhưng hóa thạch này là hoá thạch cổ, có thể tưởng tượng suy rộng ra cả vùng Thương Chau rộng lớn không phải là nơi rừng thiêng nước độc torng thời kỳ xa xưa, có lẽ là biển cả, là đầm lầy, là vùng núi, có nhiều động vật, thực vật, các loại sinh vật sống, mà con người cũng chỉ là một phần tử trong đó.  Nhưng, bây giờ, voi lớn không còn, bò rừng không còn, hươu cũng không còn, chỉ còn lại con người.  Mục Lôi bảo:

    Vẫn còn có một thứ đi theo người.

    Thứ gì?

    Chấy rận – Mục Lôi cười khì khì nói – Thời cổ xưa nhất định trên thân người cũng có chấy rận.

    Tay cậu lớn đang thò vào bụng gãi, đã dừng lại cười ngượng ngịu.

    Tôi cáu tiết bởi lời nói bông đùa của Mục Lôi.  Tôi đẩy anh ta ra cửa sổ và bảo:

    Anh đi tắm cho con Phú Quí đi, tắm rửa cho lông đen củ anó trắng ra.

    Cháu nghe bà nội kể – tôi nói – từ khi thôn này ở phố huyện cũ dời về đây, sói cũng đã kéo đến phải không ạ?

    Lại còn không ư – Cậu lớn nói – Sau khi bỏ phố huyện cũ thì nơi nhiều sói nhất Thương Châu là huyện Trấn An, mà chổ chúng ta đây là nơi nhiều sói nhất của huyện Trấn An.  Anh vào thôn mà xem, hầu như nhà nào cũng bị sói phá hoại.  Hiện nay có năm gia đình tuổi bốn mươi trở lên bị sói ăn thịt trẻ con, còn có mười bốn mười lăm gia đình bị sói cào cấu trên người.  Trong vòng trăm dặm vuông hễ nhắc đến Hùng nhĩ Xuyên mình, cứ tưởng Hùng Nhĩ Xuyên mình có oan thù với sói.  Nhưng sói nhiều thì nhiều đấy, dân số của Hùng Nhĩ Xuyên lại tăng.  Các cụ già kể rằng lúc từ phố huyện cũ chuyển về đây, chỉ có mỗi một thôn ở giữa lòng chảo, bây giờ thôn này phát triển thành một thị trấn, chung quanh lại có bốn thôn nữa.  Chỉ có người càng ngày càng đông, đất càng ngày càng ít, bình quân đầu người không đến tám sào ruộng.

    Ở nước Mỹ có một bộ phim “Nhảy chung với sói” đây mới chính là nơi người cùng nhảy chung với sói.

    “Nhảy chung với sói” ư? – Cậu lớn lắc đầu, có thể cậu lớn chưa xem bộ phim này, cứ tưởng tôi trêu chọc họ -  Người nhảy múa gì với họ hả?  Bà anh biết cuộc sống như thế nào Tử Minh, anh là người thành phố, hiểu biết nhiều, anh bảo có lạ không, đời đời kiếp kiếp sói hại người, nay nói không có nữa là tự nhiên không có nữa?  Ngày trước không có gia đình nào đi săn, ai ai cũng có thể nói mình là người thợ săn bắn, sua đó mới có thợ săn, như cậu anh đây, bây giờ đội săn bắt sói của Thương Châu cũng không còn, chỉ còn lại một mình cậu anh.  Anh xem thay đổi nhanh thế đấy.

    Tôi cũng chẳng còn là thợ săn! – Cậu tôi bảo.

    Chú vẫn còn cây súng săn và bộ quần áo đi săn cơ mà – Cậu lớn nói – Bọn trẻ con bây giờ đêm có tối đến mấy đi chăng nữa, thích đi ra ngoài, phuổi đít một cái là 9di luôn, chỉ có lớp tuổi chúng tôi, ai đi ra ngoài cũng còn quen cầm trong tay cái xẻng hay cây gậy.

    Ngay tối hôm đó, hai ông cậu tôi đã bày tổ đón nhận tẩy trần cho cháu ngoại của mình.  Nói một cách nghiêm túc cậu lớn tôi đã từng làm trưởng thôn mấy năm, sau đó lại trải qua trồng nấm hương, người trẻ trung hoạt bát hơn cậu tôi.  Cậu lớn đứng ra đăng cai, bày hẳn một mâm bốn món tanh, bốn món chay đầy ú ụ, có cả quả khô, thập cẩm, mời hơn mười vị trong thôn ngồi tiếp.  Cậu lớn giới thiệu với tôi từng người, bỗng chốc bề bật tôi tụt hẳn xuống, không gọi người kia là ông ngoại, thì gọi người này là ông cậu.  Nhắc đến bà nội tôi thì ai ai cũng gọi tên cúng cơm của bà, cứ nói bà nội tôi là người có phúc nhất ở tuổi già của Hùng Nhĩ Xuyên, ngày xưa suýt nữa bị sói ăn thịt.  Các vị này thấy bà nội tôi gặp tai nạn mà không chết là thề nào về già cũng sung sướng.  Họ còn bảo nom tôi có dáng dấp của ông ngoại, khi còn sống, ông ngoại tôi cũng cao cao xương xương thế này, tròng mắt hơi hum húp. 

    Nhưng anh ấy không có râu!

    Cậu tôi nói, tôi ngượng ngịu sờ lên má lên môi mình, họ liền bảo, thật đáng tiếc, nếu có một bộ râu quai nón thì tuyệt.  Các bậc trưởng gia đình eb6n ngoại bắn đại bác mới tới này tiếp đãi tôi hết sức nhiệt tình, nhưng không ai khôi ngô tuấn tú như hai ông cậu tôi, hình dáng củ ahọ tôi không thể nể trọng, không đầu trọc lóc thì mặt lưỡi cày, lại còn cụt aty chân thọt, thậm chí có một người đầu cứ lắc lắc quầy quậy, lúc ăn thịt uống rượu thì còn bình thường, một khi không nhai nữa, thì mồm chảy nước dãi.  Bữa cổ này ăn lấu lắm.  Tôi không uống được nhiều rượu, các vị cứ tìm hết lý do này đến lý do khác ép tôi uống, mặt tôi đỏ gay gắt, thậm chí cởi nút áo ra để họ nhìn thấy những nốt sần đỏ khắp người, lúc này họ mới bảo:

    Xét cho cùng đã là người thành phố rồi mà!

    Họ không ép tôi uống nữa, còn bản thân thì họ bắt cái chôi lẩy cỏ, đánh oảnh tù tì.  Bà mợ cứ từng gáo từng gáo múc rượu quả thị tự nấu ở chum lớn trong nhà đem ra.  Gần đến nữa đêm mà xem ra chưa có dấu hiệu tan bữa chén.  Tôi ngồi một bên cứ phụ họa cười theo và nô đùa với con Phú Quí, con Thúy Hoa chui ở gầm bàn.  Tôi đưa một cốc rượu cho Phú Quí uống, cái lưỡi dài của nó đớp đớp hết nữa cốc, rối hắt xí hơi mấy cái liền.  Giữa lúc này từ ngoài cổng có một người bịch bịch đi vào, cổng vẫn mở, trong sân không có đèn, tối mò mò, không nhìn rõ khuôn mặt người đi vào.  Cậu lớn không quay ra nhìn, vừa rót rượu vừa bảo:

    Hỉ Sinh đến hả?  vào bếp lấy đôi đủa ra đây.

    Qủa nhiên người có tên Hỷ Sinh đã huỳnh huỵch bước vào bếp ở bên trái sân lấy dôi đũa đi vào nhà, còn cầm nột củ hành đã bóc, cắn một miếng và nói:

    Phó Lai, Phó Sơn bày tiệc rượu cũng không bảo tôi một tiếng, hết rượu thì sang nhà tôi lấy! 

    Tôi bảo Thuyên này, anh đâu có chui vào lỗ chuột, bảo anh ở bên Phó Lai, quả nhiên ở đây thật.

    Con người béo ục ịch kia nói:

    Anh là đồ mũi chó, đánh hơi giỏi thế, tìm tớ có việc gì?

    Hỷ Sinh đáp:

    Đức Thuận bảo tôi tìm anh, anh tự biết.

    Thuyên nói:

    Chuyện của tôi với Đức Thuận cứ để bọn tôi tự giải quyết, anh chõ vào làm gì.

    Hỷ Sinh nói:

    Tôi cầm tiền của người ta , lẽ nào tôi không quản.  Đòi nợ cũng có đạo đức nghề nghiệp của đòi nợ chứ!

    Cậu lớn nói:

    Đến nhà tôi ăn cổ chỉ nói chuyện ăn cổ thôi đấy nhé!

    Hai người không nói nữa, tiếp tục luân lưu uống rượu.  Người nào ngừơi nấy uống tới mức nóng ran lên, cởi phăng áo ra, trông vào hoặc là một bộ da bụng lợn, hoặc là gầy giơ xương, đếm được từng rẽ xương sườn, nhưng thắt lưng của ai cũng cuốn một dãi vải đỏ.  Hỷ Sinh uống ba cốc rượu, lần lượt lại hỏi cậu chuyện này chuyện kia, sau đó nâng cốc chúc rượu, riêng Thuyên thì không chúc, sắc mặt Thuyên tai tái, cúi đầu lấy ngón tay chấm rượu viết lên bàn.  Hỷ Sinh nói:

    Biết không, bố Cẩu Hưng lại ốm, tôi đã đi thăm, ngừơi đã biến dạng, không đi đêm nay thì sáng mai đấy thôi, vừa chuyển đến thôn Đoài các anh, nhoáng một cái lại sang thôn Đông.  Bố Cẩu Hưng ngả xuống một cái, không biết lại đến lượt ai khiêng ra cổng đây!

    Mọi người lập tức im lặng, cậu lớn nói:

    Hỷ Sinh này, anh làm sao vậy, đang vui vẻ đánh chén, thì rặt nói đến chuyện buồn.  Chính quyền xã cứ phê bình thôn Đoài yếu kém, thôn Đoài không tích cực quán triệt chỉ thị của chính quyền, thế lênh gọi của ông Diêm Vương cũng không tích cực thực hiện ư!

    Ai nấy cười rộ lên.  Cậu bảo tôi và Mục Lôi bưng cốc rượu chạm chén với Hỷ Sinh, hai bên giới thiệu nhau  xong, Hỷ Sinh ngồi xuống bên tôi nói:

    Tôi bảo nhé, chỉ tiêu vừa đến thôn Đoài, tại sao lại snag thôn Đông nhanh thế? Thì ra thôn Đoài có ngừơi tỉnh thành về, chó cắn kẻ ăn xin, ma sợ người có tiền mà!

    Anh ta lại bảo tôi chơi lẩy cỏ, tôi giải thích mình không biết uống rượu, không uống được nữa.  Anh ta hỏi:

    Hay là trán tôi không đẹp như trán Thuyên? 

    Trên trán Thuyên có một vết sẹo dài. Tôi hỏi:

    Vết sẹo ấy va vào đâu thế?

    Hỷ Sinh đáp:

    Sói cào đấy! Anh ta vin vào vết sẹo ấy dây dưa không trả tiền, vậy thì tôi cũng làm một cái.

    Lời nói vừa dứt, cầm luôn chai rượu đập vào trán mình đánh bốp một tiếng, chai rượu vỡ tan, máu chảy ròng ròng.  Mọi người đứng nhào cả lên mắng nhiếc:

    Liều thế, liều thế!

    Họ khuyên Thuyên về nhà đã rồi mới dìu Hỷ Sinh vào buồn ngủ, đốt vỏ gối bông lấy tro rịt vào vết thương.

    Lại uống rượu, uống đến gà gáy lần thứ hai, khi mọi người ra về, hai ông cậu tôi cũng say, lăn ra ngủ.  Nhưng Mục Lôi kêu đau đầu, con Thuý Hoa vuốt chải cho một lúc lâu, lại uống thuốc giãm đau, vẫn không đỡ, tôi giúp anh ta giơ nắm tay đấm vào đầu, anh ta nôn thốc nôn tháo, ăn vào bao nhiêu mửa hết ra ngần ấy, sua đó nằm sóng xoài tại chỗ y như con chó chết, khe khẽ rên.  Gà gáy lần thứ tư, tôi mới đi ngủ, lúc thức giấc thì đã là trưa hôm sau.  Cậu tôi đã dậy từ bao giờ đang quét sân, còn Mục Lôi thì vẫn đang ngủ ngon.  Cậu tôi hỏi:

    Anh ta hành hạ đến già nửa đêm phải không?

    Các cậu đều say đi ngủ cả, chỉ có mộ mình cháu.

    Bệnh của anh ta …

    Cậu không muốn nói tiếp, tôi cũng không nhiều lời, xin được dẫn đi xem thôn, cậu đồng ý, lại bộ quần áo săn bắn trên người, cầm cả khẩu súng đi.

    Cứ về đến nhà là cậu cảm thấy chỗ này đau đau chỗ kia khó chịu, không mặc bọ này vào, có lẽ cậu cũng đổ mất.

    Chúng tôi đi một vòng thôn Đoài, lại đi thôn giữa và ba thôn nhỏ khác, nhiều trẻ em cứ lẽo đẽo đi theo sau chúng tôi. Trong túi em nào cũng có cái nõ, hễ trông thấy chim bay qua là bắn, không con nào là không bắn trúng.  Đến bờ sông phía nam lòng chão, mặt trời đang nắng gay gắt trên các mỏm đá ở bờ sông thỉnh thoảng có con cò đậu, bọn trẻ thúc cậu nổ súng, đương nhiên cậu không bắn, bọn chúng giơ nỏ bắn trúng một con, lại chờ con khác xuất hiện, bắn liền một lúc năm con.  Một con ba ba bò lên khỏi mặt nước nằm phơi mai trên hòn đá, những hòn sỏi từ nỏ bắn ra đều tập trung bắn vào mai, mai ba ba không vỡ, nhưng con ba ba tung lên, rơi tõm xuống nước.  Lúc này cậu giơ súng lên, cũng chỉ giơ lên một cái, mặt nước bắn lên tung tóe.

    Không trúng ba ba, không trúng ba ba!

    Bọn trẻ nhao nhao nói, nhưng một con rắn màu xanh phơi bụng trôi trên mặt nước, đang từ từ trôi dạt vào bãi nước cạn.  Tôi trông thấy con rắn dài hơn hai thước, chưa chết hẳn, bắt đầu vặn mình co dúm lại, màu xanh thân rắn trộn lẫn màu đỏ, rợn cả người mà bọn trẻ thì khoái chí, chạy xuống cầm con rắn bị thương dùng vỏ cây buộc đuôi rắn vào cành cây, con rắn còn hơi dãy dụa, bọn chúng đứng xa xa ngoài mười mét thi nhau bắn, con rắn cứ ngắn dần ngắn dần từng đốt.

    (còn tiếp)

    Nguồn: Hoài niệm sói. Tiểu thuyết của Giả Bình Ao. Vũ Công Hoan dịch. Biên tập: Triệu Xuân & Ngô Thanh Hương. NXB Văn học, 2003.

    www.trieuxuan.info

     

    Mục lục: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

    Bài viết liên quan

  • Nam Đế Vạn Xuân
    • Nam Đế Vạn Xuân

      Với hơn 500 trang, 15 hồi gay cấn, sinh động trong từng câu thoại của các nhân vật lịch sử, Tiểu thuyết Lịch sử Nam Đế Vạn Xuân nằm trong bộ Tiểu thuyết dài tập Vương triều tiền Lý của Nhà văn Phùng Văn Khai. Nam Đế Vạn Xuân tái hiện một cách sinh động lịch sử nước nhà xoay quanh triều đại của nhà nước Vạn Xuân (544-602) giúp chúng ta hiểu và tự hào hơn về lịch sử đánh giặc hào hùng của dân tộc. Với bộ nhân vật lịch sử đồ sộ của cả ta lẫn địch như: Lý Nam Đế, Tinh Thiều, Phạm Tu, Triệu Túc, Triệu Quang Phục, Phùng Thanh Hòa… hay Lương Vũ Đế, Vũ lâm hầu Tiêu Tư, Dương Phiêu, Lý Tắc… tạo nên rất nhiều tình tiết móc ngoặc, những cuộc đấu trí gay cấn hay những lời thoại sinh động của từng nhân vật. Nam Đế Vạn Xuân như một con tàu thời gian đưa ta ngược trở về từng quãng của lịch sử cách đây gần 1500 năm từ khi Lý Bí tu tập tại chùa Cổ Pháp đến thời điểm làm Giám quân ở Đức Châu và cuối cùng là đuổi giặc Lương lên ngôi tại điện Vạn Thọ. Đó cũng là lần đầu tiên Việt Nam có hoàng đế và niên hiệu Thiên Đức là niên hiệu riêng đầu tiên để chứng tỏ nước ta đã giành lại độc lập từ tay Trung Quốc.

    Tìm kiếm

    Lượt truy cập

    • Tổng truy cập57,915,625

    Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

       

      Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

      *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

    Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

      WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

      Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

      The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

      Enjoy life, enjoy Arita experience!