Tìm kiếm

Lượt truy cập

  • Tổng truy cập57,743,522

Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

     

    Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

    *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

    WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

    Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

    The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

    Enjoy life, enjoy Arita experience!

Tiểu thuyết

Quỷ Vương

Vũ Ngọc Tiến

  • Thứ hai, 18:07 Ngày 01/04/2019
  • Quỷ Vương

    2. Thái hoàng thái hậu Trường Lạc     

    Thùy Dung trở dậy từ rất sớm, lững thững ra vườn đến nhà bát giác tập thiền. Đất trời mờ tối. Sương rơi lãng đãng. Cánh rừng nguyên sinh phía sau lưng biệt thự đen thẫm một mầu, đung đưa trong gió bản nhạc du dương và huyền bí. Biệt thự Hoa phù dung theo nhận xét của chú Đại Uy có khu nhà chính rập theo mẫu cung An Định trong cố đô Huế, do hoàng tử Khải Định lúc chưa lên ngôi còn ở ngoài cung xây nên. Nó mang đặc điểm kết hợp giữa kiến trúc gô-tich miền Nam nước Pháp thế kỷ 19 với những yếu tố họa tiết đặc thù của kiến trúc cung đình ở phương Đông. Cái khác ở chỗ nội thất phòng nào cũng khép kín, trang thiết bị hiện đại, nhất là thiết bị nhà vệ sinh lộng lẫy như khách sạn năm sao. Ngôi nhà bát giác ngắm cảnh ở giữa hoa viên biệt thự lại mô phỏng theo lầu bình thơ, ngắm trăng của di tích Dự Viên ở thành phố Thượng Hải bên Tầu. Không gian kiến trúc ấy khiến Thùy Dung đôi lúc tập thiền có ảo giác mình đang sống giữa hoàng thành Thăng Long cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16. Nàng nhìn thấy rõ cổng Đoan Môn, điện Kính Thiên, cung Diên Thọ, cung Vĩnh Khang, cung Trường Lac… Nàng Lệ Thanh mang dung mạo Thùy Dung cam chịu thân phận nô tỳ, ngày ngày gánh hai chậu sứ có nắp đậy, trong đựng phân và nước tiểu của các bà phi, cung nữ mang ra cổng phía Tây, đổ vào những thùng gỗ lớn để lính kéo xe mang ra ngoài hoàng thành bán cho các bà nông dân ở Kẻ Noi. Những lúc rảnh việc, nàng trốn vào xó tường hay gốc cây nơi khuất nẻo, bưng mặt khóc thầm, khôn nguôi nhớ chàng nho sinh Bùi Trụ. Nàng nhớ những ngày thơ ấu, hai đứa nô đùa đuổi chim bắt bướm trên các ruộng rau loi thoi ngồng cải hoa vàng hay những buổi cùng nhau sang tận làng Yên Thái xem các cô thợ xeo dẻo tay rung lắc khuôn gỗ trong bể nước bột giấy cho tới khi thành hình từng trang giấy bản. Và nàng lại nhớ có biết bao lần trong ráng chiều đỏ lựng, hai đứa mải mê ngắm cảnh hồ Tây mênh mang sóng nước, nghe tiếng chim sâm cầm ríu rít gọi bầy, chao nghiêng đôi cánh. Nàng quên sao được ngày cha cùng tiên sinh Bùi Xương Trạch uống rượu bình thơ trên manh chiếu trước hiên nhà và hai ông đã hứa hẹn cho đôi trẻ xe duyên kết tóc… Hoạn quan Nguyễn Nhữ Vi được lệnh của hoàng tử Lê Tuấn đã nhiều lần quan sát, lân la gạn hỏi về chữ nghĩa, khả năng cầm- kỳ- thi- họa của Lệ Thanh. Hắn dọa dẫm, đã vào cung làm nô tỳ là khôn sống mống chết, không chết mất xác vì đắc tội với bề trên thì cũng chết già. Muốn đổi phận mình phải biết câm nín và vâng lời. Cái giống hoạn quan không làm được chuyện ấy, nhưng vẫn là thằng đàn ông, luôn tay sờ xoạng hết lượt các nô tỳ còn trẻ đẹp. Riêng với Lệ Thanh vì Lê Tuấn đã xí phần nên Nhữ Vi không dám bờm xơm. Hơn thế, hắn đang tính toán trong đầu để làm sao vừa được lòng Lê Tuấn, vừa âm thầm chuẩn bị đi một nước cờ xa hơn. Vua Túc Tông lên ngôi mới được vài tháng đã lâm trọng bệnh. Lê Tuấn và anh em Bá Thăng, Đình Khoa đang tính toán thời cơ hạ độc vua bằng thạch tín, ngặt vì Thái hoàng thái hậu vốn tính cẩn thận nên đã sai cung nữ sắc thuốc ở cung Trường Lạc, đồ ăn thức uống cũng bắt Thái giám nếm trước mặt bà rồi mới cho vua dùng. Muốn giúp Lê Tuấn đánh tráo thang thuốc trước khi sắc, Nhữ Vi phải có người lọt vào đám cung nữ ở cung Trường Lạc và hắn đã nhắm sẵn Lệ Thanh. Hồi trẻ, Thái hoàng thái hậu rất sành Đường thi lại có giọng ngâm tốt. Bà thường chọn những bài đặc sắc trong thiên gia thi đời Đường, hợp với tâm trạng từng lúc của vua Thánh Tông để sai người đàn sáo, rồi tự mình ngâm cho chồng nghe. Nay đã về già, chồng và con trai là vua Hiến Tông cũng đã băng hà. Những lúc buồn, bà rất muốn có người đàn hát hay sướng họa Đường thi cho mình nghe. Lệ Thanh là cơ hội Trời cho để Nhữ Vi chọn làm quân bài thực hiện gian kế liền tâu trình lên cung Trường Lạc được bà ưng chuẩn. Nàng vô tình, ngỡ mình gặp may thoát khỏi thân phận nô tỳ, dốc lòng hầu hạ Thái hoàng thái hậu. Với gã hoạn quan Nhữ Vi, nàng chịu ơn lớn nên chỉ biết răm rắp vâng lời…

    Thùy Dung cùng một lúc sống ở hai kiếp người, chẳng phân biệt nổi đâu là thực, đâu là ảo giác. Sớm nay theo thường lệ, nàng dậy sớm, ngồi tọa thiền ở nhà bát giác lúc bốn giờ sáng. Ngồi được chừng mười phút nàng nghe vẳng bên tai lời của Quyền nhỏ nhẹ vừa đủ nghe: “Hôm nay có việc gấp anh phải đi sớm. Có lẽ từ giờ đến cuối năm anh sẽ đi về thất thường, tối đừng đợi cơm, nếu anh không về ngủ nhà em đừng buồn cũng đừng giận anh, nghe Dung. Cả cái nước mình nó thế, không riêng gì tỉnh K, tư duy nhiệm kỳ đã nhiễm vào máu nên năm cuối nhiệm kỳ chẳng đâu chịu làm việc. Công chức từ trên xuống dưới chỉ nhong nhóng hóng hớt chuyện nhân sự và lo giữ ghế. Việc ở ủy ban đã bê trễ, ngập cả đống công văn giấy tờ, đơn kiên cáo bắt anh xử lý. Công việc ở tập đoàn của chú Uy cũng rối như canh hẹ vì chịu ảnh hưởng ở bên chính quyền. Thôi em cứ ngồi tập tiếp anh đi đây. Việc chăm sóc các con anh trông cậy cả vào em…” Chờ cho chiếc xe đến đón Quyền nổ máy, Dung mở mắt, xả thiền, trầm ngâm suy nghĩ. Sao anh ấy phải đi sớm thế? Nghe trong giọng nói như có gì khang khác? Anh đến ủy ban hay sang tập đoàn của chú Uy? Suốt đêm qua anh không rời bàn làm việc, chuông điên thoại reo liên tục. Quyền nghe điện rồi lại gọi đi khắp nơi chỉ đạo việc này việc nọ. Hình như anh gọi nhiều lần cho bên công an và kiểm sát. Mấy hôm trước nhiều người bên tập đoàn Bil- Kel, nhất là ông Khang, cậu Tùng, bà Xuân lúc gọi điện, lúc đến nhà thì thầm to nhỏ, bàn bạc với Quyền rất lâu. Cái cậu Tùng xoăn này lần nào ló mặt ở biệt thự thì y như rằng sẽ có lắm chuyện rắc rối, phiền phức xảy ra. Từ lâu mình đã ớn cái bản mặt nó, bảo với Quyền cấm cửa, không cho nó lai vãng đến biệt thự, nhưng hôm qua nó lại đến hai lần, thì thầm với ông chủ như đánh bạc giả, ắt có chuyện lớn. Dư luận lâu nay xì xầm nhiều về lai lịch của Trưởng phòng giám sát thi công ở tập đoàn chú Uy. Nó thì có trình độ gì mà giám sát. Chú Uy nhặt Tùng về từ khi nó làm cai bưởng trên bãi đào vàng ở thung lũng Lương Thượng, huyện Na Rì- Bắc Cạn. Thời gian đầu mới chỉ là công ty nhỏ, buôn bán lâm đặc sản và vải sợi các loại nhập từ bên kia biên giới, chú Uy giao cho nó cai quản lũ cửu vạn đường biên. Khi lên tập đoàn, Tùng được bổ nhiệm chức trưởng phòng ấy chỉ là che mắt thế gian chứ thực chất nó chuyên lo giải phóng mặt bằng cho các khai trường khai thác mỏ, đường cao tốc hay các dự án bất động sản. Năm năm trước đã từng ầm ĩ khắp tỉnh vụ côn đồ hành hung nông dân bản Phìn, cướp đất làm dự án Khu du lịch sinh thái và văn hóa các dân tộc khiến một gia đình người Dao uất ức tự tử cả nhà bằng lá ngón. Nếu không có Ông Cụ đứng ra giàn xếp vụ này từ Trung ương xuống, chắc chú Uy rắc rối to. Năm ngoái xảy ra vụ giải phóng mặt bằng khai trường mỏ sắt bản Chiềng dẫn đến xô xát, một người bị đánh chết nên nông dân khiêng quan tài ra tận cửa trụ sở cơ quan Viện kiểm sát làm việc đòi sự công bằng, công an dẹp mãi mới yên. Gần đây lại tiếp diễn vụ biểu tình của dân chúng khu phố cũ bị côn đồ giả danh bộ đội, cưỡng ép phá dỡ để xây dựng Tổ hợp trung tâm thương mại- dịch vụ khách sạn- khu vui chơi giải trí cũng do Tập đoàn Bil- Kel làm chủ đầu tư… Mang nặng trong lòng bao suy diễn vẩn vơ, Dung lững thững quay về phòng tắm gội rồi sang phòng ăn sáng. Chị giúp việc bưng ra vài lát bánh mì, hộp pate gan ngỗng của Pháp, một chén yến hấp với đường phổi Quảng Ngãi và một phin café Ban Mê. Nàng chưa muốn ăn, bật TV và nhìn những giọt café tí tách rơi. Đài truyền hình tỉnh K đang phát chương trình “Tin thời sự buổi sáng”. Cô phát thanh viên loan tin vừa xảy ra vụ án mạng kinh hoàng. Nạn nhân là bà Cao Thị Thơ, Chủ tịch ủy ban mặt trận tỉnh. Bà bị sát hại lúc nửa đêm tại nhà riêng. Kẻ sát nhân dùng dao đâm bà nhiều nhát vào ngực, vào bụng rồi mở két lấy hết tư trang, tiền bạc và một cặp tài liệu điều tra theo đơn khiếu kiện của công dân, bà mới mang về từ cơ quan để nghiên cứu cũng biến mất. Trước khi đi, hắn còn dã man tưới xăng khắp trong ngoài phòng khách ở tầng trệt phóng hỏa. Ngôi nhà hai tầng bằng gỗ nhỏ bé của bà Thơ bỗng chốc thành đuốc lửa khổng lồ trong đêm, nhưng lực lượng chức năng đã kịp thời dập tắt đám cháy. Vụ án đang trong quá trình điều tra, nhưng theo lời một cảnh sát điều tra, nghi phạm chính là đứa cháu nội Phùng Quang Thu vì bà Thơ sống một mình, con cái đều đang ở thị xã Y, duy chỉ có Thu học năm cuối phổ thông trung học, nhân nghỉ hè lên chơi với bà được hai tuần nay. Thu có tiền sử nghiện hút, thác loạn trên sàn nhảy, ngáo đá mấy lần. Từ khi xảy ra vụ án, công an truy tìm Thu không thấy, đã có lệnh truy nã toàn quốc. Dung trân trối nhìn đám lửa trên màn hình TV cảm thấy lợm giọng nôn khan, không nuốt nổi bữa sáng. Nàng uống vội ly café rồi quay về phòng nằm thượt trên giường…

    Cái chết của bà Thơ cứ ám ảnh, đưa Dung chìm sâu vào trong ảo giác sống lại kiếp nàng Lệ Thanh, chứng kiến cái chết thảm khốc của Thái hoàng thái hậu Trường Lạc. Bà đang ngồi bất động trong cung, lòng buồn tê tái. Vua Túc Tông lên ngôi tháng sáu đến tháng chạp năm Giáp Tý băng hà, hưởng dương 17 tuổi, ở ngôi vẻn vẹn có 6 tháng trời. Đứa cháu nội Lê Thuần hiền hòa, hiếu học không may đoản mệnh. Ta cầm tờ di chiếu của nó trên tay ngỡ ngàng không sao tin nổi. Vẫn biết ở đời sinh ly tử biệt là lẽ thường tình. Song người đàn bà như ta chỉ trong vòng 7 năm phải tự tay lo mấy đám tang cho chồng, cho con rồi cho cháu nội Thuần, kẻ đầu bạc khóc tiễn đưa kẻ đầu xanh thử hỏi còn đau xót nào hơn. Lệ Thanh vừa ngâm cho ta nghe bài thơ “Tống Biệt” của thi sĩ Đỗ Mục đời Đường có câu: “Lạp trúc hữu tâm hoàn tích biệt- Thế nhân thùy lệ đáo thiên minh” sao mà hợp với tâm trạng ta lúc này. Ta đã ba lần cạn khô nước mắt khóc đến tàn canh cho cây bạch lạp cháy đến kiệt cùng giữa cung Trường lạc này. May vì ông Trời còn cho ta đứa cung nữ xinh đẹp, giỏi giang ở bên cạnh, hết lòng an ủi hầu hạ. Càng đau xót ta càng lo cơ đồ nhà Lê sau mấy chục năm Thánh Tông trị vì, nhọc công gây dựng đang có nguy cơ đổ nát. Ngần ấy năm làm Hoàng hậu bên đấng minh quân tài đức đức song toàn, ta đã chứng kiến một vương triều hùng mạnh, hiển hách ở cõi trời Nam. Giờ nhớ lại ta vẫn như được bên vua vi hành tận các làng quê hẻo lánh tra xét dân tình; thưởng lãm những bài văn để chọn ra các vị Trạng nguyên tài năng xuất chúng như Thân Nhân Trung, Lương Thế Vinh, Nguyễn Quang Bật…; nghe vua bình thơ ở Tao Đàn “Nhị thập bát tú” nhất là được đi theo hầu hạ vua trên bước đường chinh chiến ở phương Nam, đến tận thành Đồ Bàn chói chang nắng gió phương Nam.

    Có những đêm thơ thẩn dạo gót dưới ánh trăng trong vườn thượng uyển, Thái hoàng thái hậu chợt đắm mình vào kỷ niệm về thời thiếu nữ ngập tràn hạnh phúc bên vua trẻ Lê Thánh Tông. Ngày tám tháng sáu năm Canh Thìn (28/6/1460) chàng trai 18 tuổi Lê Tư Thành được các lão thần khai quốc Nguyễn Xí, Đinh Liệt phò giúp lên ngôi, lấy hiệu là Thánh Tông. Không lâu sau, cô tiểu thư Nguyễn Thị Hằng tuổi tròn 16, con gái quan Thái úy  Nguyễn Đức Trung cũng được triều thần tiến cử làm Hoàng hậu, ngự ở cung Trường Lạc nên còn gọi là Hoàng hậu Trường Lạc. Vua trẻ lên ngôi đã nhanh chóng chỉnh đốn triều cương, chấm dứt tình trạng chia rẽ nội bộ của vương triều. Trước tiên vua đổi mới hệ thống cai trị nước Đại Việt. Thời Trần có 4 Bộ: Hình, Lại, Binh, Hộ; Thời Lê Thái Tổ rút gọn còn 3 Bộ: Lại, Lễ, Dân; nay vua sắp xếp lại thành 6 Bộ: Lại Bộ trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng các quan; Lễ Bộ trong coi việc đặt và tiến hành các nghi lễ, yến tiệc, học hành thi cử, đúc ấn tín, cắt cử người coi giữ đình, chùa, miếu mạo; Hộ Bộ trong coi việc đạc điền, quốc khố, hộ dân, tô thuế, kho tàng; Binh Bộ trông coi việc binh chính, gìn giữ biên cương, bổ nhiệm quan trấn thủ ở những nơi hiểm yếu; Hình Bộ trong coi việc hành pháp dựa theo bộ luật Hồng Đức do đích thân vua khởi sướng để các đại thần biên soạn; Công Bộ trong coi việc xây đắp và sửa chữa cầu đường, đê điều, xây dựng cung điện, thành trì và quản đốc các thợ thuyền, hỗ công, hỗ thương. Vua còn chia lại các cấp hành chính địa phương từ 5 đạo đổi thành 13 đạo còn gọi là 13 thừa tuyên xứ. Dưới thời Thánh Tông các quan chỉ tại nhiệm đến 65 tuổi, bãi bỏ lệ cha truyền con nối ở các gia tộc đại công thần khai quốc. Về việc quân binh, Thánh Tông thường xuyên đi tuần phòng ở các nơi biên ải, khuyến dụ các quan cảnh giác với âm mưu xân lấn của giặc Minh, ứng phó kịp thời các vụ việc lãnh thổ khiến các phiên tướng nhà Minh phải nể sợ. Nhờ thế, thời Lê Thánh Tông binh hùng tướng mạnh, quân lương sung túc, vũ khí nhiều loại có uy lực, hỏa lực mạnh như hỏa thương, hỏa hổ, súng thần công tinh xảo. Về các mặt nông tang, canh cửi, giao thương và các nghề thủ công mỹ nghệ tinh xảo cũng được vua quan tâm nhắc nhở quan lại, khuyến dụ dân chúng đồng lòng nỗ lực mở mang cho ngày thêm phồn thịnh. Thái hoàng thái hậu Trường Lạc không sao quên được những ngày theo vua hầu hạ trên bước đường chinh chiến năm Canh Dần (1470). Năm đó, vua Chiêm là Trà Toàn bỏ triều cống, hung hãn mang 10 vạn quân đánh chiếm châu Hóa, tướng trấn giữ châu Hóa là Phạm Văn Hiển không chống cự nổi đã phải cho người về Đông Đô khẩn cầu viện binh. Vua sai các tướng Quách Đình Bảo, Nguyễn Đình Mỹ mang quân tinh nhuệ đi trước rồi tự mình thống lĩnh đại quân chinh phạt. Tháng ba năm Tân Mão (1471) Lê Thánh Tông cùng đại quân đánh chiếm thành Đồ Bàn, kinh đô của giặc Chiêm Thành, bắt sống vua Trà Toàn và hàng vạn quân địch, sát nhập vùng đất từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông vào nước Đại Việt. Thời Lê Thánh Tông, tù trưởng xứ Bồn Man thuộc nước Lão Qua mang quân sang quấy nhiễu đều bị vua sai Thái úy Lê Thọ Vực cùng các tướng Trịnh Công Lộ, Lê Đình Ngạn mang quân dẹp yên, bắt họ phải thần phục, hàng năm triều cống. Giờ đây, trong nỗi đau tang tóc mất đứa cháu nội Lê Túc Tông, lo cơ đồ bị hư nát, Thái hoàng Thái hậu bồi hồi nhớ lại thời khắc huy hoàng một thời xuân sắc. Bà gọi Lệ Thanh lại gần bảo:

    - Ta bỗng nhiên da diết nhớ thời thịnh trị của Thánh Tông, nhớ ngày cùng vua đi đánh Chiêm Thành hay giặc Bồn Man. Ngươi có nhớ bài thơ nào của vua hay các vị trong Tao Đàn viết về thời đánh trận ở miền Nam, miền Tây oanh liệt đó không?

    - Bẩm tấu lệnh bà! Tiện nữ hồi còn ở nhà thường được nghe cha cùng Tiến sĩ Bùi Xương Trạch đàm luận ca ngợi bài “Tư gia tướng sĩ” của vua Thánh Tông vì trong chiến thắng Ngài vẫn không quên làm thơ xót thương tướng sĩ, binh lính của mình. Bài thơ làm bằng chữ Hán, chàng Bùi Trụ đã dịch ra chữ Nôm cho tiện nữ nghe.

    - Vậy con mau đọc đi!

    - Thưa vâng, tiện nữ xin đọc:

    Tư gia tướng sĩ

    Bắc phong huề thủ dữ thùy câu,

    Bất dạ thiên cao nguyệt ảnh cô.

    Mai lạc ngũ canh tăng viễn hận,

    Sầu hai nhất nhật tự tam thu.

    Hồn năng dẫn mộng tồn tâm phủ,

    Tửu đáo vong hình tích tú vô.

    Dục thức cố nhân cựu tiêu tức,

    Khủng hy tiện nhạn đáo Thần Châu.

    Dịch là:                                       

    Tướng sĩ nhớ nhà

    Cùng ai gió bấc khẽ cầm tay,

    Đêm sáng trời cao nguyệt lẻ loi.

    Mai rụng canh trường thêm hận nặng,

    Sầu tuôn ngày ngắn tựa thu dài.

    Hồn bay dẫn mộng chừng còn nhớ,

    Rượu đến quên hình tiếc chẳng say.

    Muốn gửi tin về thăm bạn cũ,

    Thần Châu sợ ít nhạn xa bay.

    Thái hoàng thái hậu nghe xong lòng cảm kích trước tấm lòng nhân ái của vua đồng cam cộng khổ với tướng sĩ chốn xa trường. Bà nghẹn giọng hỏi Lệ Thanh:

    - Ta nghe nói, Trạng nguyên Lương Thế Vinh trong Tao Đàn có bài thơ sướng họa, ngươi có biết không?

    - Dạ bẩm tấu lệnh bà! Con cũng thuộc được bài thơ ấy cả chữ Hán của quan Trạng và bài dịch của chàng Bùi Trụ, xin đọc ngay hầu lệnh bà:

    Tụng giá tây chinh phụng họa ngự chế “Tư gia tướng sĩ”

    Công nghĩa tư tình dục lưỡng câu,

    Gia thôn hồi thủ bạch vân cô.

    Canh trù ám sổ si như mộng,

    Lữ thứ không miên lãnh tự thu.

    Vạn lý mã tê sầu tự hữu,

    Nhất thiên nhạn đoạn tín thư vô.

    Chỉ kỳ thường liễu huyền hồ chí,

    Kinh phất thanh phong thượng đế châu.

    Dịch là:

    Theo vua đi đánh miền tây kính họa bài thơ “Tướng sĩ nhớ nhà” của vua

    Nợ nước tình nhà muốn vẹn đôi,

    Non quê mây trắng lững lờ trôi.

    Trống canh nghe điểm ngày như mộng,

    Lán trại nằm suông lạnh cả người.

    Muôn dặm ngựa kêu vò tấc dạ,

    Một trời nhạn vắng bặt tin hơi.

    Cung tên quyết hẹn đền xong nợ,

    Gió mát về kinh bước thảnh thơi.

    Bài thơ sướng họa của quan Trạng càng khiến Thái hoàng thái hậu cảm hoài ứa nước mắt. Bà chợt nhớ năm chồng cùng quan Trạng sướng họa bài thơ ấy là lúc mới sinh Thái tử Tranh, tức vua Hiến Tông, cha của Túc Tông mà sao cả hai đã nỡ bỏ bà mà ra đi sớm vậy!... Sắp đến giờ khâm liệm, đưa di hài vua Túc Tông sang nhà Thái Miếu để cầu siêu, Lệ Thanh đọc đi đọc lại cho ta hàng chục lần tờ di chiếu, nhưng càng nghe càng thấy phi lý. Cháu Thuần viết: “Bệnh Trẫm chưa khỏi, lo rằng việc phó thác nặng nề e sẽ không kham nổi. Con thứ hai của Tiên hoàng đế là Tuấn, là người hiển minh, nhân hiếu, có thể nối được ngôi chính thống để kế thừa tổ tông, vỗ về thần dân trăm họ. Đại thần và các quan hãy hết lòng trung trinh để giúp nên nghiệp lớn; thân vương nào dám tiếm vượt ngôi Trời thì người trong nước cùng nhau giết đi.” Sinh thời cháu Thuần đối đãi với các thân vương rất nhân ái, chan hòa, chỉ cương quyết bắt bẻ lũ ngoại thích như bá Thăng, Đình Khoa, không duyệt cho làm quan bên phủ Đông Ngàn dù chỉ là một chức quan nhỏ. Ta không tin lời di chiếu nhắc đến các thân vương chỉ vài chữ mà sặc mùi máu như thế. Còn với cháu Tuấn, ngay từ hồi Hiến Tông còn sống, hai mẹ con ta đã từng nhiều phen không an tâm về nó. Vậy nên khi chọn người lập làm Thái tử ta đã khuyên con mình chọn Thuần là con thứ ba chứ không chọn Tuấn là con thứ hai. Hơn nữa mẹ Tuấn là Nguyễn Thị Cận xuất thân hèn kém, đã ngu dốt lại đành hanh với các phi tần, ưa lời xiểm nịnh của hoạn quan Nhữ Vi không xứng làm dâu của ta, sao có thể dạy dỗ con nó thành người tử tế. Hiến Tông băng hà, thị còn dắt con mình mang lễ vật đến dinh quan đại thần Đàm Văn Lễ, xin được nói giúp với ta và các đại thần lập Tuấn kế vị, nhưng ông này kiên quyết từ chối, bẩm lại với ta. Ngay như quan Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật khi đàm luận về các hoàng tử vẫn thường cảnh báo ta rằng phẩm hạnh của Tuấn không mấy tốt đẹp. Ông còn tâu trình, trong những ngày tang lễ vua cha, Tuấn thường cùng hoạn quan Nhữ Vi thậm thụt giao du với hai vị sứ thần nhà Minh đáng ngờ là Nhược Thủy và Hy Tăng, nhận của họ nhiều lễ vật bằng gốm sứ, lụa quý, gấm thêu. Cháu Thuần thông minh, hiếu thảo, nếu có ý định viết di chiếu truyền ngôi nhất định sẽ hỏi ý ta rồi mới viết, huống hồ lời lẽ lại tâng bốc Tuấn tận mây xanh, rõ là có kẻ ngụy tạo…

    Ngày mồng tám tháng chạp Túc Tông băng hà. Thái hoàng thái hậu nhận được tờ di chiếu do hoạn quan Nhữ Vi dâng lên biết có sự man trá bên trong, lấy cớ vua chết trẻ cần được siêu thoát, chưa cho phát tang, sai Lệ Thanh truyền đạt ý chỉ lệnh cho quan Lễ bộ Hữu thị lang Nguyễn Bảo Khuê phải tìm 12 vị cao tăng ở kinh đô vào cung làm lễ cầu siêu đủ 7 ngày cho cháu nội. Đó chỉ là kế trì hoãn để bà có thời gian bàn thảo, thương lượng với các đại thần tâm phúc. Tiếc rằng các bậc túc nho từ thời Thánh Tông đã rơi rụng gần hết vì tuổi già, còn lại mấy vị như Bùi Xương Trạch, Nguyễn Quang Bật, Đàm Văn Lễ lại không có thực quyền. Đám khoa bảng còn trẻ trong triều đều xu thời ngả theo phe cánh Lê Tuấn hết cả. Võ tướng tâm phúc của bà là Nguyễn Văn Lang, Lương Đắc Bằng nắm đội quân thiện chiến thì đang trấn thủ ở thành Tây Đô phòng giặc Chiêm thành phía Nam, giặc Lão Qua phía Tây vào quấy rối. Đất nước không thể một ngày thiếu vua, huống chi đã qua 7 ngày cầu siêu nên Thái hoàng thái hậu bất đắc dĩ phải cho phát tang, bố cáo cùng thiên hạ tờ di chiếu. Ngày mười sáu tháng chạp năm Giáp Tý (1504) Lê Tuấn, đế hiệu là Uy Mục đăng quang ở điện Kính Thiên, chủ trì tang lễ. Sau lễ tang, bà dắt theo Lệ Thanh vào nhà Thái Miếu, đóng cửa ba ngày nhịn ăn, gõ mõ tụng kinh, cầu khấn anh linh chồng là vua Lê Thánh Tông phù hộ cho dòng tộc và dân nước Đại Việt. Lệ Thanh phải hết lời khuyên giải, bà mới chịu quay về cung Trường Lạc. Nào ngờ bà đau xót nghe được tin dữ, vua Lê Uy Mục đã sai người bắt giam toàn bộ gia quyến chú ruột mình là Kiến vương Lê Tân, đánh đập vô cùng tàn nhẫn Lê Sùng và ba đứa em nhỏ Lê Oanh, Lê Vinh, Lê Quyên. Vua Lê Thánh Tông có 7 thê thiếp và rất nhiều tài nhân, sinh hạ được 13 Hoàng tử và 20 Công chúa. Thái tử Lê Tranh con bà Hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng, lên ngôi năm Đinh Tỵ (1497) lấy hiệu là Hiến Tông. Kiến vương Lê Tân là con thứ năm, do bà phi Phùng Diệm Quý sinh ra, từ nhỏ đã rất thông minh, hiếu học được vua cha Thánh Tông và Thái tử Lê Tranh rất yêu mến, tin tưởng. Vậy nên khi Túc Tông chết sớm, không có con nối dõi, Thái hoàng thái hậu Trường Lạc mới tính kế hoãn tang 7 ngày để bàn cách bí mật đưa con trưởng Lê Tân là Cẩm Giang vương Lê Sùng lên ngôi, nhưng toan tính bất thành. Biết được chuyện ấy, bọn Khương Chủng, Nhữ Vi kích động vua mới sát hại cả bốn anh em Lê Sùng, song Uy Mục cũng đủ khôn chỉ sai bắt giam tra tấn bằng cực hình cho họ chết dần trong ngục. Lại nói bà Nguyễn Thị Cận lên làm Thái hậu đã vội trở mặt khinh nhờn Thái hoàng thái hậu Trường Lạc, đơm điều dặt chuyện nói xấu mẹ chồng và nài ép Uy Mục phong quan tước cho hai kẻ ngoại thích Bá Thăng, Đình Khoa. Thái hoàng thái hậu vô cùng tức giận. Bà gọi hai mẹ con Uy Mục đến cung Trường Lạc răn dạy, mắng mỏ không tiếc lời. Ông vua trẻ chỉ cười nhạt, đợi khi bà dứt lời liền rũ áo đứng dậy gằn giọng nói sẵng: “Bà sống quá thọ thế cũng đủ rồi.” Hạ tuần tháng hai năm Ất Sửu (1505), nhằm đêm tối trăng, gió mùa đông bắc thổi lộng trên nóc hoàng cung như bầy sói hú, vua Lê Uy Mục dẫn theo Khương Chủng, Nhữ Vi và dăm lính ngự lâm xộc vào cung Trường Lạc đập phá tan hoang. Sau đó, vua đưa mắt cho Nhữ Vi dâng lên bà nội mình chén thuốc cực độc. Lệ Thanh và tất thảy đám cung nữ đều quỳ mọp xuống chân vua van vỉ:

    - Muôn tâu hoàng thượng! Thái hoàng thái hậu là người hiền đức, ân uy trùm khắp bách tính. Cúi mong hoàng thượng mở lượng bao dung, tha chết cho bà.

    Uy Mục trừng mắt thét to:

    - Lũ tiện tỳ sao dám mạo phạm cản lệnh ta, muốn chết hử!

    - Dạ muôn tâu! Nếu lệnh bà phải chết, chúng thần xin tình nguyện chết theo.

    Vua nghe vậy càng thêm tức tối, ra lệnh cho bọn lính xông vào dẫm đạp, đánh đập dã man các cung nữ. Thái hoàng thái hậu thấy thế, đập tay xuống sập quát lớn:

    - Dừng tay! Không kẻ nào được phép đánh cung nữ. Vua đã muốn thì ta sẽ chết. Từ lâu ta đâu còn thiết sống nữa.

    Bà bảo Lệ Thanh cùng hai cung nữ đỡ mình đứng dậy, đi vào buồng trong trang điểm, sửa lại khăn áo chỉnh tề rồi mới quay ra, khoan thai cầm chén thuốc độc uống cạn trong tiếng khóc thống thiết của cung nữ. Từng người thi nhau đập đầu vào mép sập chết theo, duy có nàng Lệ Thanh bị Khương Chủng sai lính xúm lại ngăn cản rồi kéo đi về phía cung Diên Thọ. Nàng ngoái đầu nhìn cung Trường Lạc bốc cháy thiêu đốt hơn chục con người thành tro mà kinh hoàng chết ngất.

    Thùy Dung lăn lộn trên giường, luôn miệng kêu khát. Đầu nàng nhức như búa bổ, toàn thân nóng ran, miệng đắng ngắt. Chị giúp việc hớt hải chạy vào phòng thấy vậy toan gọi điện cho Quyền. Nàng xua tay ngăn lại, bảo rót cho mình ly nước lạnh. Đợi nàng uống xong, chị giúp việc lấy khăn ướt đắp lên trán. Dung nằm hồi lâu, trân trối nhìn lên trần nhà. Nàng vẩy tay ra hiệu cho chị ta lui ra ngoài, từ từ nhắm mắt, chìm sâu vào ảo giác.

    Đêm ấy đất trời tối đen như mực. Mưa rơi rả rích. Hoàng cung im lặng như tờ. Gió mùa đông bắc thổi lộng, rét như cắt da cắt thịt. Lệ Thanh được các cung nữ dẫn vào bồn tắm ghép bằng gỗ quý hoàng đàn trên núi Hoàng Liên mang về. Họ tắm gội cho nàng bằng nước thơm của lá hương nhu, giúp nàng mặc xiêm y toàn bằng lụa quý Giang Tô bên Tầu do thương gia nước Minh qua Nhữ Vi gửi biếu vua và Thái hậu Nguyễn Thị Cận. Trang điểm xong, họ dắt Lệ Thanh đi dọc mấy dãy hành lang trạm khắc tinh vi để lên cung Diên Thọ vào chỗ vua nằm. Dọc đường nàng ứa lệ gọi thầm trong lòng hai tiếng Bùi Trụ. Thế là sẽ hết đời con gái. Cái ngàn vàng này lẽ ra dành để dâng hiến cho chàng, nay thành miếng mồi thơm đem cho quỷ dữ. Vua đang nằm đợi ở buồng trong, bắt nàng đứng đợi ở buồng ngoài rộng thênh. Giữa nơi nguy nga, sơn son thếp vàng, sao nàng thấy nó âm u, chứa đầy âm khí. Nếu có con dao nhọn, nàng thề sẽ đâm thẳng vào tim tên bạo chúa rồi quyên sinh bảo toàn danh tiết với người mình yêu, nhưng nàng không thể. Trong ánh lửa bập bùng hắt ra từ nhiều cây bạch lạp to bằng ống nứa. Vua lệnh cho nàng đứng nghiêm giữa buồng lớn. Hai tay nàng đưa lên cao đỡ chiếc khay bằng gỗ quý đang đội trên đầu. Trên khay bầy một bình rượu và hai cái ly nhỏ, thảy đều làm bằng đá ngọc do thương gia nước Minh dâng tặng. Vua vỗ tay ra hiệu cho hai cung nữ trần truồng bước vào, giúp nàng cởi hết xiêm y, vứt thành một đống dưới chân và xé vụn thành từng mảnh nhỏ. Tiếng lụa bị xé càng to vua càng thích thú cười vang. Từng tràng âm thanh man rợ cứ lan xa trong, ngoài cung Diên Thọ, giữa đêm đông lạnh giá khiến Lệ Thanh bàng hoàng khiếp đảm,  trân trối nhìn vua như ma quỷ hiện hình. Máu trong người như đông cứng lại. Suốt đời nàng không thể quên những tiếng cười ghê rợn ấy. Sau đó, vua cũng cởi đồ khỏa thân đi lượn quanh người đẹp nhìn ngắm, hít hà. Hồi lâu Uy Mục với tay rót ra hai ly rượu, một ngửa mặt uống cạn, một dùng tay ấn vào miệng Lệ Thanh bảo uống. Sau mỗi chầu rượu như thế, vua lại sai hai cung nữ mỗi người cầm một đoạn dây thừng bện bằng lụa trắng, ở đầu tết quả cầu to bằng trái quýt dùng tay quất mạnh như mưa lên khắp thân thể Lệ Thanh. Nàng nhắm mắt nghiền răng chịu trận, không dám rên la hay buông tay sợ vỡ bình rượu sẽ đắc tội khi quân, bị chém rơi đầu ngay tức khắc. Hành hạ nàng thỏa thê rồi vua mới bảo cung nữ cất khay đuổi ra ngoài, đoạn bế thốc người đẹp lên long sàng làm cuộc mây mưa đến sáng…

    Lúc đầu, Lệ Thanh cứ ngỡ mình bị vua hành hạ để trả thù cái tát bên bờ hồ Tây hôm nào. Sau nàng mới biết Uy Mục mắc chứng bạo dâm, mỗi lần phá trinh một phi tần hay cung nữ vua đều nghĩ ra nhiều trò quỷ quái để hành hạ người đẹp trước khi ân ái. Nàng cay đắng nhận ra mình vừa thoát kiếp nô tỳ lại phải làm nô lệ tình dục cho ông vua quỷ, muốn cắn lưỡi tự tử, nhưng phải gượng sống để chờ ngày cha mãn hạn lưu đầy trở về. Có lần nàng chứng kiến vua bắt một cung nữ khỏa thân nằm ngửa dưới sàn, giang tay, rạng chân theo hình chữ Đại. Vua còn lấy bút lông viết thêm vào rốn chữ Vương rồi mới cầm đoạn dây thừng bện bằng lụa trắng, vừa vung tay quất mạnh vừa la hét và uống rượu chán chê mới chịu cùng người đẹp ân ái ngay trên sàn cung Diên Thọ. Có một điều lạ, với các cung nữ vua phá trinh xong thì quên luôn, còn với Lệ Thanh vua lại rất sủng ái, ban tước Kính phi. Uy Mục còn cho nàng đặc ân được hầu quạt lúc khai triều ở điện Kính Thiên, khi về cung Diên Thọ được ở gần vua mài mực, rửa bút và giúp vua đọc các tấu biểu. Nhờ thế nàng hiểu rõ ngọn ngành vụ án hai quan đại thần Nguyễn Quang Bật, Đàm Văn Lễ được Thái hoàng thái hậu Trường Lạc khi còn sống luôn tin tưởng, hỏi ý kiến về việc triều chính.

    Mùa hè năm Kỷ Tỵ (1509), hai con nhỏ của Kiến vương Lê Tân là Lê Vinh, Lê Quyên cùng đám người hầu bị giam lâu ngày không chịu nổi cực hình và đói khát đã chết dần trong ngục, may được lính canh giúp đỡ nên con cả Lê Sùng dắt em thứ hai là Lê Oanh vượt ngục trốn vào xứ Thanh nương nhờ Nguyễn Văn Lang ở thành Tây Đô. Triều đình mỗi lúc một rối ren, nhiều quan đại thần gốc gác khoa bảng thời Thánh Tông và Hiến Tông nối nhau thác bệnh hoặc tuổi già xin được cáo quan về quê. Gian thần Khương Chủng và hoạn quan Nhữ Vi được dịp cài cắm người của mình vào lục Bộ trong triều. Tuy vậy, chúng vẫn không yên tâm vì hai đại thần này đang còn tại vị. Uy Mục cũng không ưa họ, muốn giết đi, nhưng không có cớ khép tội.  Năm đầu dưới triều Uy Mục, cấm vệ quân có quyền bắt giam dùng nhục hình ép cung đến chết, không cần xét xử từ thân vương đến các quan. Nhưng với Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật và Đông các đại học sĩ Đàm Văn Lễ thì khác bởi hai ông quá thanh sạch, uy tín lớn. Nhữ Vi hiến kế cho vua lấy cớ hai ông kết giao thân thiết với cha con Kiến vương Lê Tân, mở cuộc điều tra lý do vì sao Lê Sùng, Lê Oanh dễ dàng vượt ngục thoát thân, trốn vào Tây Đô. Uy Mục ra ý chỉ cho dinh An phủ sứ của Đình Khoa tra tấn, xét hỏi Quang Bật và Văn Lễ. Hai ông bị đánh đập dã man vẫn cắn răng không nói nửa lời. Mặc dù tội chứng chưa rõ ràng, nhưng Đình Khoa viết sớ xin vua giáng cấp hai ông từ quan tam phẩm xuống ngũ phẩm, điều đi nhận chức một mình đất Quảng Nam, còn vợ con phải lưu lại kinh đô làm con tin. Nhữ Vi được lệnh dẫn giải hai ông đến nơi nhậm chức, nhưng vua chiếu cố công lao và tuổi già cho họ đi bằng xe ngựa. Ngày dẫn giải tội nhân gia quyến hai ông đứng chật cổng thành khóc lóc tiễn đưa vô cùng bi thiết. Dọc đường thiên lý vào Nam, đoạn từ cổng thành đến trấn Ngọc Hồi, rất nhiều bạn đồng liêu, học trò của hai ông đón đợi, chuyện trò trong nước mắt. Họ dúi cho Nhữ Vi tiền, vàng và hàng trăm lạng bạc nhờ chăm sóc quan Trạng, quan Đông các đại học sĩ Đàm Văn Lễ. Đoàn người ngựa vào đến xứ Thanh bỗng thấy từ xa bụi bốc mù trời. Tổng trấn Tây Đô Nguyễn Văn Lang và quân sư Lương Đắc Bằng phi ngựa, dẫn theo một toán kỵ binh ào ào kéo đến. Hai người mặc giáp trụ, kiếm dắt ngang hông oai phong lẫm liệt. Quân lính đi theo chừng vài chục kỵ sĩ cao to vạm vỡ, cầm theo giáo mác, đeo cung tên, mắt trừng như hổ đói. Nhữ Vi nhìn họ run sợ, mặt như chàm đổ, lưng vã mồ hôi, tay chân lóng ngóng. Họ cùng quỳ xuống đường hô lớn: “ Chúng tôi kính chào quan Trạng và Đông các đại học sĩ!” Hai vị tướng quân phớt lờ gã hoạn quan, tiến lại gần xe ngựa, vòng tay thi lễ, nói:

    - Chúng tôi chờ đã lâu, xin hai vị đại thần xuống xe để được hầu tiếp, đưa tiễn một đoạn đường, tịnh không có ý gì khác.

    Nguyễn Quang Bật ngồi trên xe ung dung đáp:

    - Hai vị tướng quân chắc thừa biết bọn ta chỉ là kẻ tội thần mạo phạm tới vua mà nên nông nỗi này. Xin hai vị về cho, đừng làm kinh động đến sai nha, dân chúng trong vùng.

    - Vậy đệ chỉ xin hai huynh cho phép mời một chầu rượu đưa tiễn. Ở bờ sông nơi làng Hạc kia có quán rượu nhỏ, không có gì phải e ngại- Lương Đắc Bằng tiếp lời quan Trạng.

    Nhữ Vi lúc này đã hoàn hồn, chạy lại gần xe ngựa nói đỡ vài câu. Buộc lòng hai ông phải chiều ý, xuống xe. Bốn vị đại thần cùng cầm tay tay nhau đi một đoạn đường đất, rẽ vào quán rượu. Nguyễn Văn Lang bắt Nhữ Vi đứng đợi ngoài quán, xung quanh sai lính canh chừng cẩn mật. Vào đến trong quán, hai vị tướng quân ôm chầm lấy Quang Bật và Văn Lễ òa khóc, thổn thức hỏi hạn sự tình ở kinh đô. Họ khuyên hai ông cùng về thành Tây Đô bàn kế khởi binh, đánh về kinh thành. Nguyễn Văn Lang cắn răng đến bật máu, thề không đội trời chung với Uy Mục và lũ gian thần. Ông vốn là con trai của Thái úy Nguyễn Đức Trung, em ruột của Thái hoàng thái hậu. Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật từ chối và nói với Nguyễn Văn Lang:

    - Tướng quân không mang theo Lê Oanh là rất may cho chúng tôi, khỏi bị triều thần thêm nghi ngờ khép tội phản nghịch. Uy Mục giờ đây đã lộ nguyên hình thành quỷ vương, tội ác chất chồng, Trời và Người đều oán giận không thể tha chết, nhưng việc khởi binh ở Tây Đô theo ý ta cũng chưa nên nóng vội mà hỏng việc.

    - Quan Trạng nói thế là ý làm sao?

    - Có hai lý do: Một là lực lượng chưa đủ mạnh, cần chờ thêm nửa năm tuyển mộ binh sĩ, tích trữ lương thảo. Hai là Lê Oanh tuy dòng dõi hoàng tộc, nhưng mới 14 tuổi còn quá trẻ không đủ uy tín hiệu triệu các quan. Nếu Lê Sùng còn sống thì tốt, nhưng vì lúc bị giam cầm đã chịu nhiều cực hình nên lâm bệnh chết ở Tây Đô. Muốn việc lớn thành công phải được lòng người quy thuận nên hai vị tướng quân cần tìm một người lớn tuổi trong hoàng tộc mượn danh nghĩa để hiệu triệu thiên hạ, quy tụ các quan và dân chúng theo về thành Tây Đô.

    Lương Đắc Bằng nghe xong gật đầu tán thưởng. Nguyễn Văn Lang sung sướng nắm tay Quang Bật, Văn Lễ hẹn ngày tái ngộ. Họ cùng uống vài chầu rượu, tiễn nhau thêm một chặng đường dài mới chịu bịn rịn chia tay, hẹn ngày tái ngộ ở kinh đô. Đoàn người ngựa tiếp tục lên đường, qua hai ngày thì tới bờ sông Lam mênh mông chảy xiết. Nhữ Vi ngồi thuyền lớn đi trước dẫn đường, còn hai ông ngồi thuyền nhỏ, có mấy tên ngư phủ nom mặt gian xảo, dữ dằn chở thuyền ra giữa sông thì nhảy xuống nước, lật úp thuyền, dìm chết Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật cùng Đông các đại học sĩ Đàm Văn Lễ. Con sông Lam đôi bờ sóng vỗ, vô tình cuốn theo xác hai nhân tài đất Việt, giàu lòng yêu nước thương dân về phía cửa sông. Đất trời mờ mịt nổi cơn giông lốc… Nhữ Vi xong việc hớt hải cưỡi ngựa, nhằm hướng kinh đô phi nhanh như gió. Hắn không ngờ cái chết cũng đang chờ mình ở kinh đô. Anh em Nguyễn Đình Khoa, Nguyễn Bá Thăng bàn với Uy Mục: “Hoàng thượng mới lên ngôi giết đại thần có học vấn uyên thâm là điều tối kỵ, chi bằng nhân việc này ta khép tội Nhữ Vi mưu sát họ để yên bụng thiên hạ, lấy lòng các quan trong triều.” Vua Uy Mục nghe theo kế ấy xử Nhữ Vi tội chết, bêu đầu thị chúng ở cổng thành. Thực ra từ lâu bọn Khoa, Thăng đã bí mật dò xét quan hệ của Nhữ Vi với sứ thần nhà Minh, giao du với khách buôn phương Bắc, kiếm lợi vô kể. Chúng muốn độc chiếm mối lợi này mà tương kế tựu kế giết Vi. Dòng tộc ngoại thích ở Phù Chẩn từ bữa ấy mượn thế Thái hậu Nguyễn Thị Cận gia tăng buôn bán với bọn người đáng ngờ từ phương Bắc. Cung Chiêu Nhân của bà Cận thường dập dìu đưa đón khách ra vào là người Hán với danh xưng thầy lang, thầy bói, thầy địa lý, khách buôn được Thái hậu  ban ý chỉ gọi vào lo việc này việc nọ cho hậu cung và cho họ Nguyễn làng Phù Chẩn…

    Đã sắp tới giờ đến trường đón cu Bil đi học về. Thùy Dung ngồi dậy trang điểm qua loa, xuống nhà đón tay chị bảo mẫu, nựng yêu bé Kel một lúc rồi đi ra cổng biệt thự. Anh lái xe của Quyền như một robot đã được lập trình sẵn, ngày nào cũng lái xe chờ trước cổng lúc 16h30’, dù ngày mưa hay nắng cũng không hề sai hẹn. Anh là người dân tộc Dao ở bản Phìn, có vóc người to cao, cơ bắp săn chắc, lầm lỳ ít nói và có phần bí hiểm. Chú Uy tuyển anh từ lò võ nổi tiếng nhất tỉnh K, cho đi học lái xe về trả thêm ngoài lương rất hậu để kết hợp làm vệ sĩ cho anh trai mình chứ lương viên chức lái xe ở ủy ban tỉnh có lẽ không đủ tiền uống ăn sáng, uống cà phê, lấy đâu người tài mà trung thành, kín miệng tuyệt đối. Dung nhớ có lần đi xe về Hà Nội mua mỹ phẩm, tranh thủ ghé thăm Hương thì gặp Dân ở đó. Anh nhìn lái xe quan sát rồi quay sang Hương nói bâng quơ, thời bây giờ các đại gia, quan chức dường như cảm thấy bất an nên ai cũng cần vệ sĩ. Ngày xưa, vua Lê Uy Mục luôn bị ám ảnh vì thích khách đã nghe theo lời khuyên của gian thần Khương Chủng mở khoa thi võ tuyển được Võ Trạng nguyên là Mạc Đăng Dung làm vệ sĩ. Ngai vàng có vững là ở lòng dân chứ đâu có thể dựa vào cơ bắp vệ sĩ. Hương lừ mắt nguýt dài, ông làm nhà sử học chưa đủ hay sao còn đòi làm nhà chính khách hay “lều” triết gia nữa thế! Dân không đáp lại cô bạn Hương đáo để, chỉ cười và quay sang nói nhỏ với Dung: “Anh đang nghiên cứu “Lịch sử 100 năm thời Lê sơ” có đoạn viết về các khoa thi võ bổ sung vào sách giáo khoa môn Sử, nếu Dung có hứng thú anh sẽ gửi qua mail trích đoạn này đọc chơi cho vui.” Cái file thư ấy Dung đã đọc qua, giờ không nhớ nữa. Từ trường học của cu Bil về nhà phải đi qua cổng chợ giữa giờ cao điểm kẹt cứng vì những người buôn bán nhỏ tràn cả ra lòng đường. Nhìn mấy anh công an la hét tuýt còi, có anh cầm dùi cui đánh đập bà con để dẹp đường cho xe của mình, bất giác câu chuyện Dân kể ở nhà Hương lại bộn lên trong đầu Dung câu hỏi vu vơ: “Anh Quyền cần vệ sĩ hay cần lòng người? Tỉnh K cần nhiều công an dẹp đường cho xe của vợ con ông Quyền hay cần nhiều trường điểm cho trẻ thơ như của cu Bil?” Và… Dung lại nôn nao nhớ những ngày xưa, nơi thị xã Y mưa phùn gió bấc, cậu bé Dân con bác chủ nhà trùm áo mưa cõng cô con gái 3 tuổi của thầy Hạnh đến lớp mẫu giáo. Cái thời khốn khó ấy hai nhà nương tựa vào nhau, che chở và bảo vệ nhau, làm sao Dung quên được. Nàng về nhà, tắm rửa cho cu Bil xong liền mở laptop tìm lại file thư hôm nào Dân viết về các khoa thi võ thời Lê. Tận thẳm sâu, nàng cảm thấy Dân muốn qua mình nhắn nhủ một điều gì đó tới Quyền…

    Đời vua Lê Thánh Tông, đất nước hùng mạnh nhờ coi trọng tìm kiếm nhân tài cả văn lẫn võ, tiếc rằng sách sử ít nói về các khoa thi võ. Từ kinh đô đến các lộ đã có trường dậy văn lại có trường dậy võ của triều đình. Về văn, từ năm 1463 đến 1496, ông đã đều đặn mở 9 khoa thi Hội và thi Đình, kén chọn được 9 vị Trạng nguyên và mấy trăm vị Tiến Sĩ, sách sử và bia đá nơi Văn Miếu còn ghi rõ. Về võ, triều đình quy định các quan võ từ tứ phẩm trở xuống phải vào thi ở trường võ, nếu đỗ mới được tiếp tục đào tạo theo quy trình cao cấp bắt buộc để thi võ kinh; bao gồm cả phần thuyết giảng về cách bày binh bố trận, coi thiên văn, xét địa lý, đoán định tình hình kẻ địch, thực hành võ lược, khổ luyện võ công… Từ năm 1479 trở đi, triều đình bắt đầu hoàn thiện quy trình đào tạo và võ cử. Lúc đầu vua chỉ tập trung vào các con cháu hoàng thân quốc thích và con các quan từ ngũ phẩm trở lên, sau mở rộng ra con cái các quan từ tứ phẩm trở xuống, đến cả thứ dân để tìm ra những nhân tài võ học ẩn dật trong các vùng quê. Thường niên triều đình tổ chức khảo thí vào tháng chạp, sau 3 năm đào tạo sẽ dự khóa thi tốt nghiệp ở kinh đô do Binh bộ thượng thư làm chủ khảo, còn ở địa phương do quan Đô Úy hoặc Hiệu Úy của triều đình cử về làm chủ khảo. Theo đó, các khoa thi chia làm hai cấp: cấp sơ khảo ở địa phương gọi là sở cử, ai thi đậu là Toát Sĩ; cấp chung khảo ở kinh đô gọi là bác cử, ai thi đậu là Tạo Sĩ. Vua sẽ đích thân chọn ra 12 Tạo Sĩ để tổ chức tranh tài, kén làm Võ Trạng Nguyên. Đến đời Uy Mục vì hoang dâm vô độ, làm nhiều điều tàn ác, vua bị ám ảnh có người hành thích, trong đầu luôn ngờ quan, sợ dân. Bởi thế, vua mới lên ngôi được một năm chưa mở khoa thi văn đã vội tổ chức rầm rộ, tốn kém khoa thi võ sở cử và bác cử chỉ nhằm mục đích tìm người tài giỏi làm vệ sĩ cho mình, tổ chức lại đội quân ngự lâm. Ngày rằm tháng giêng năm Bính Dần (1506) vua Uy Mục dắt theo Kính phi Lệ Thanh và bọn nịnh thần Khương Chủng, Bá Thăng, Đình Khoa thân chinh ngự giá ở Giảng Võ Đường xem 12 Tạo Sĩ tài giỏi nhất nước tranh tài. Trường thi có võ đài nằm trong khu vực được rào kín, canh phòng nghiêm ngặt, chỉ có một cổng ra vào. Bao quanh võ đài có bốn khu riêng biệt; khu đầu dành cho các quan giám khảo; khu kế tiếp dành cho các quan đề điệu, giám sát; còn hai khu kia dành cho 12 Tạo Sĩ dự thi, mỗi người được có năm người cùng võ đường chăm sóc lúc nghỉ ngơi giữa hai hiệp đấu; nằm giữa hai khu của thí sinh có nhà gỗ là nơi thu quyền gọi là nhà Thập Đạo. Khác với thông lệ của các cuộc thi võ, chỉ được đả thương, không được truy sát kẻ đã thất thế. Lần này vua ban ý chỉ cho thí sinh được phô diễn hết mức các chiêu thức tuyệt kỹ, nếu có người không may chết tại võ đài cũng không bắt tội. Vì vậy cuộc tranh tài diễn ra vô cùng khốc liệt, có 7 người chết, 4 người bị thương nặng chỉ để chọn ra Võ Trạng nguyên là Mạc Đăng Dung người làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương. Năm Đoan Khánh năm thứ 4 (1508), vua Lê Uy Mục tin tưởng người vệ sĩ trung thành đã thăng chức cho ông làm Thiên vũ vệ đô chỉ huy sứ ty đô. Mỉa mai thay, năm sau Uy Mục bị giết và 18 năm sau Đăng Dung giết vua Chiêu Tông rồi lại ép vua Cung Hoàng nhường ngôi ở Đông Đô, đến năm sau cũng giết nốt! Hơn 20 năm có tới bốn ông vua bị giết, chẳng vệ sĩ nào cứu nổi cho mấy ông vua nửa người nửa ngợm!...

    Thùy Dung đóng máy đứng dậy. Bỗng nhiên không hiểu vì sao, nàng thấy lòng nặng trĩu, tâm thần thảng thốt một nỗi lo không rõ nguyên nhân. Nàng cố gượng săn sóc các con ăn tối, hướng dẫn cu Bin làm bài tập, vỗ về bé Kel và đọc truyện cỏ tích cho đến khi nó ngủ say. Dung lại ra vườn, ngồi trong nhà bát giác, nhìn về phía bên kia hồ, nơi có tòa nhà chín tầng của tập đoàn Bin- Kel đang lấp lóa ánh đèn. Đêm nay Quyền dặn trước sẽ không về nhà. Ở trụ sở tập đoàn, trên tầng 9 có phòng họp lớn và 4 phòng đầy đủ tiện nghi, lộng lẫy như khách sạn 5 sao, chuyên dành cho bộ tứ đầu não tập đoàn là Thế Quyền, Đại Uy, Khang quân sư và Xuân Tây Thi sử dụng mỗi khi họp bàn công việc về đêm. Đồn rằng mỗi khi Quyền ngủ lại đó, bà Xuân cũng ở lại chăm sóc. Ở tuổi 42, bà ấy vẫn giữ được vóc dáng cân đối, đường cong tuyệt mỹ, gương mặt đẹp một cách ma mỵ. Cái tuổi ấy người đàn đẹp đang hồi xuân sẽ giàu sức quyến rũ đàn ông, sành chuyện chăn gối. Nói như chú Uy, đứng trước bà Xuân thì đến Ông Cụ cũng mê mẩn đờ đẫn vì cái mề hê của bà. Tiếng là bà ấy được Ông Cụ nhận làm con nuôi, nhưng ai mà biết chuyện ma ăn cỗ. Huống chi Quyền với Xuân quen biết nhau từ buổi hai người còn làm ăn với nhau ở chợ Đôm 5 bên Nga thời Liên Xô sắp tan rã. Thời ấy, đa số người Việt làm ăn ở Nga gần như sống quần hôn vì thiếu thốn tình cảm. Giờ tình cũ không rủ cũng tới. Nhưng Quyền là người phân định rạch ròi chuyên ăn phở với ăn cơm. Anh say đắm yêu chiều vợ, chu đáo với gia đình, còn mình vốn thờ ơ chuyên ấy, trách Quyền sao được. Đàn ông càng thành đạt, nhu cầu tình dục càng lớn. Lâu nay anh ngủ với bà Xuân hay bỏ tiền bao các cô hoa hậu, người mẫu chân dài đi công tác lâu ngày trong nước, ngoài nước mình cũng chẳng mấy bận lòng. Điều đáng lo là trong cái ngày kinh khủng như hôm nay, bộ tứ trụ triều đình vương quốc Bil- Kel đang bàn bạc những gì, liệu có liên quan đến vụ án bà Cao Thị Thơ hay không? Trong buổi họp báo ban sáng, anh phóng viên gạo cội ở tờ báo lớn từ Hà Nội lên đã dũng cảm hỏi: “Vì sao bà Thơ chết chỉ cách vài ngày bà chất vấn những khiếu kiện của công dân liên quan đến tập đoàn của ông Lê Đại Uy tại buổi chất vấn của kỳ họp Hội đồng nhân dân tỉnh?...” Quyền đã thay mặt lãnh đạo tỉnh trả lời đanh gọn: “Vụ án đang trong quá trình điều tra. Tập đoàn Bil- Kel của ông Đại Uy là doanh nghiệp đầu tầu kinh tế tỉnh K, mỗi năm nộp ngân sách hơn 200 tỷ. Vì vậy những khiếu kiện liên quan đến doanh nghiệp cũng phải chờ thanh tra tỉnh vào cuộc mới có câu trả lời chính xác. Nhà báo và dư luận cần bình tĩnh, tránh nôn nóng phát ngôn bừa bãi.” Dung nghe trong giọng nói của chồng lờ mờ cảm thấy như có gì chưa ổn, phấp phỏng lo âu… Cứ thế, nàng ngồi bất động suốt đêm trong nhà bát giác. Nhưng đến 4h00 sáng Dung vẫn ngồi tập thiền, lại thả hồn chìm trong ảo giác sống kiếp nô tỳ Lệ Thanh hơn 500 năm trước…  

    (còn tiếp)

    Nguồn: Quỷ Vương. Triệu thuyết lịch sử của Vũ Ngọc Tiến. NXB Hội Nhà văn, 2016.

    Tác giả gửi www.trieuxuan.info

    Mục lục: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

    Bài viết liên quan

  • Nam Đế Vạn Xuân
    • Nam Đế Vạn Xuân

      Với hơn 500 trang, 15 hồi gay cấn, sinh động trong từng câu thoại của các nhân vật lịch sử, Tiểu thuyết Lịch sử Nam Đế Vạn Xuân nằm trong bộ Tiểu thuyết dài tập Vương triều tiền Lý của Nhà văn Phùng Văn Khai. Nam Đế Vạn Xuân tái hiện một cách sinh động lịch sử nước nhà xoay quanh triều đại của nhà nước Vạn Xuân (544-602) giúp chúng ta hiểu và tự hào hơn về lịch sử đánh giặc hào hùng của dân tộc. Với bộ nhân vật lịch sử đồ sộ của cả ta lẫn địch như: Lý Nam Đế, Tinh Thiều, Phạm Tu, Triệu Túc, Triệu Quang Phục, Phùng Thanh Hòa… hay Lương Vũ Đế, Vũ lâm hầu Tiêu Tư, Dương Phiêu, Lý Tắc… tạo nên rất nhiều tình tiết móc ngoặc, những cuộc đấu trí gay cấn hay những lời thoại sinh động của từng nhân vật. Nam Đế Vạn Xuân như một con tàu thời gian đưa ta ngược trở về từng quãng của lịch sử cách đây gần 1500 năm từ khi Lý Bí tu tập tại chùa Cổ Pháp đến thời điểm làm Giám quân ở Đức Châu và cuối cùng là đuổi giặc Lương lên ngôi tại điện Vạn Thọ. Đó cũng là lần đầu tiên Việt Nam có hoàng đế và niên hiệu Thiên Đức là niên hiệu riêng đầu tiên để chứng tỏ nước ta đã giành lại độc lập từ tay Trung Quốc.

    Tìm kiếm

    Lượt truy cập

    • Tổng truy cập57,743,522

    Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

       

      Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

      *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

    Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

      WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

      Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

      The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

      Enjoy life, enjoy Arita experience!