Tìm kiếm

Lượt truy cập

  • Tổng truy cập51,436,570

Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

     

    Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

    *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

    WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

    Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

    The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

    Enjoy life, enjoy Arita experience!

Truyện ngắn

Qúa khứ của hôm nay

Nguyễn Trường

  • Thứ năm, 10:45 Ngày 17/09/2020
  • Vào buổi sáng mùa hè cuối thập niên 60 thế kỷ trước, khi mặt trời lên khoảng nửa con sào, bầu trời trong xanh, không một gợn mây. Vào những ngày thời tiết tốt như hôm nay, không quân Mỹ thường đưa máy bay từ hạm đội ngoài biển Đông ào ạt vào Thanh Hóa, ném bom, bắn phá các trọng điểm: Ga Bỉm Sơn, ga Đò Lèn, cầu Hàm Rồng. Chiếc cầu Đập bé tí, bắc qua sông Hoạt giữa huyện Hà Trung và Nga Sơn cũng bị ném bom, gãy gục. Cầu Cừ, tuy nhỏ hơn nhưng lại giữ vị trí quan trọng, cho đường sắt và đường bộ, huyết mạch của cả nước, vẫn còn nguyên vẹn. Vậy mà anh Thoại dám đứng trên cây cầu ấy như không biết chiến tranh đang xảy ra ác liệt, chăm chú nhìn những cây cột lim có niên đại hàng trăm năm, loại gỗ quý đã lên nước đen như mun, rắn như thép, bất chấp nắng mưa, mối mọt. Nó chính là những cây cột trụ của miếu Triệu Tường(1).

    Năm đó Thoại mới mười tuổi, nhớ như in sức mạnh của dân làng được sử dụng không đúng cách. Đám đông ít học không hiểu lịch sử của đất nước, họ chỉ biết rằng cấp trên nói đó là miếu thờ bọn phong kiến bóc lột, tàn ác phải phá bỏ.

    Người ta tập trung hàng trăm người trước miếu Triệu Tường. Sau tiếng hô của người chỉ huy, đoàn người ào ạt tông cửa Tam quan, xông vào nhà thờ Nguyễn Kim, Nguyễn Hoàng, đập nát bàn thờ sơn son thiếp vàng, phá tan chiếc khảm để hai tấm bài vị, một tấm ghi những chiến tích của Nguyễn Kim; một ghi duệ hiệu của vợ ông. Sập chạm rồng cũng bị khiêng ra, tháo tung, mỗi người giành một tấm ván. Rương quần áo thờ bị xới lên, gấm lụa bị xé rách, vứt tung tóe. Chiếu hoa, thảm dùng vào lúc vua về cúng tế bị giẫm nát. Hai con hạc gỗ sơn son thiếp vàng bị đập gãy cổ, gãy chân, vứt lăn lóc. Bát hương vỡ tan tành, hoành phi câu đối, bài vị… chõng chơ trên nền đất.

    Một toán người trèo lên mái nhà lật tung ngói, rui mè, đòn tay… quẳng xuống đất. Đám đông người xã Hà Giang đập chân tường trước rồi tranh nhau đủn như mở hội. Vừa đủn  họ vừa la: “Một, hai, ba, một hai ba…”. Rầm một tiếng, bức tường đổ sập, đè hàng chục người bị thương, một người chết tại chỗ. Mặc, đám đông cứ dỡ những phiến đá, viên gạch xây nền móng vì loại này rất tốt. Gỗ của miếu thì được kéo về, bắc nên cây cầu Cừ vững chắc này.

    Bố Thoại là người có chí lớn, ông tham gia cách mạng, làm Chủ tịch ủy ban Kháng chiến xã Hà Long, được bầu là đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ông đang là trưởng tộc họ Nguyễn, trông coi việc thờ cúng lăng mộ Triệu Tổ và miếu Triệu Tường theo gia phả để lại. Vào cuối năm 1954, đợt hai cuộc cải cách long trời lở đất diễn ra ở Thanh Hóa, nhằm xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt các phần tử bóc lột, phản quốc… bố anh bị quy là địa chủ tàn ác, lại là con cháu của giai cấp vua chúa phong kiến phản động… Bữa đó ông đang họp tại Ủy ban Kháng chiến xã Hà Long thì bất ngờ một nhóm người đến bắt ông giải đi… Ruộng đất, nhà cửa của gia đình anh bị tịch thu… Mẹ anh bị bệnh, nằm trên giường, đói lả, sợ liên lụy, bà con không ai dám đến thăm…

    Những năm đó nhà anh kiệt quệ về kinh tế, khủng hoảng về tinh thần, bị chà đạp về nhân phẩm… Đi học, anh khép nép ngồi cuối lớp, không dám chơi với ai. Bữa học bài lịch sử “Nguyễn Ánh cõng rắn cắn gà nhà”, thằng Tuấn, bặm trợn nhất trong lớp chỉ vào Thoại nói lớn “Là ông tổ nhà thằng Thoại đó bay ơi, kẻ phản động…”. Một nhóm, toàn những đứa con nhà bần cố nông vây lấy Thoại đồng thanh: “Bọn phong kiến, bọn địa chủ cường hào ác bá”. Thoại cúi gằm mặt, nước mắt lưng tròng, nhủn như con chi chi. Nhưng trời cho Thoại cái gen thông minh, luôn đứng nhất lớp về các môn học làm cho Thu rất có cảm tình, thường đến nhà Thoại nhờ chỉ bảo, giải những bài toán khó. Nếu không có Thu, liệu Thoại có đủ can đảm học hết cấp ba?

    Càng học lên lớp, đôi bạn càng thân nhau, rồi tình yêu đến lúc nào không biết. Thoại xin vào bộ đội, nhưng không được chấp nhận vì thành phần lý lịch, anh đành xin vào thanh niên xung phong, ở tuyến lửa Quảng Bình. Là người dũng cảm, sau loạt bom Mỹ, anh xông lên trước, tháo kíp bom nổ chậm, mở đường, nếu có chết thì ít ra còn được là liệt sỹ. Đơn vị nhận xét rất tốt về anh, dự tính kết nạp Đảng cho anh, nhưng khi chi bộ xem lý lịch thì họ đành phải xếp hồ sơ của anh lại; không có lấy một lời giải thích, an ủi động viên.

    Ba năm ở chiến trường khói lửa, nhiều đồng đội hy sinh, anh vẫn sống như thể bom đạn chê mình. Để chuẩn bị cho chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân 1968, cần tuyển một số Thanh niên xung phong sang quân đội. Anh mừng thầm, lần này sẽ được toại nguyệt cầm súng ra trận. Nhưng không, anh lại bị gạt về phía sau, cũng vì lý lịch…

    Anh trở về quê trong nỗi thất vọng ê chề. Thanh niên thời đó đều đã thoát ly, người ra chiến trường, người vào biên chế nhà nước, chỉ những người sức khỏe yếu, bị tàn tàn tật một phần và thuộc thành phần lý lịch như anh mới ở nhà, đối diện với những ánh mắt giễu cợt của làng xóm.

    Càng lớn Thu càng đẹp, nàng có khuôn mặt tròn, làn da trắng, dáng thanh mảnh, biết bao chàng trai ngấp nghé, nhưng Thu vẫn kiên nhẫn chung thủy chờ Thoại. Anh trở về lại là niềm vui của nàng vì họ được sống bên nhau. Tình yêu đã chín muồi, họ quyết định đi đến hôn nhân. Sau đám hỏi, họ đã đăng ký kết hôn, chỉ còn lễ cưới thì một biến cố xảy ra. Tuấn, con ông chủ tịch huyện vẫn theo đuổi Thu. Cậu học trò chỉ vào Thoại khi học đến bài “Nguyễn Ánh cõng rắn cắn gà nhà” hồi ấy đã cho người đến nhà ép gia đình Thu, họ còn bóng gió dọa: “Nếu Thu không lấy Tuấn, sẽ bị đi thanh niên xung phong, vào Quảng Bình lửa đạn, lấy thằng con địa chủ, phản động thì con cái không thể ngóc đầu lên được…”. Bên nhà Thu cuối cùng đành khuất phục. Chị gái Thu đến nhà Thoại, đưa tờ giấy ly hôn. Thoại hiểu tình thế của mình đành phải ký mà lòng dạ tan nát.

    Hôm sau Thu đến nhà gặp Thoại, mí mắt sưng húp nhưng ánh mắt rực lên quyết tâm hiến dâng trinh tiết cho anh để áp lực lại với gia đình Tuấn và buộc gia đình mình không hủy hôn. Nhưng mà nàng có hiểu giọt nước tràn ly. Khổ quá rồi, Thọai không muốn dắt người yêu của mình vào con đường cụt… Cùng đường, Thu ra cầu Cừ lao đầu xuống dòng nước… Thế là hết, Thoại không còn thiết sống… Ôi, sống trên đời làm gì nữa, mọi con đường đều dẫn đến bế tắc. Thoại đi lang thang như người mộng du, cứ theo con đê, đi mãi, vô tình đến cây cầu định mệnh, cây cầu bắc bằng nỗi đau của dòng họ anh, của chính anh.

    Ầm ầm, ào ào, tiếng động cơ máy bay Mỹ quen thuộc cứ lớn dần lên xen trong tiếng kẻng báo động từ xa đến gần vọng về, dồn dập. Mọi người nhanh chóng chạy xuống hầm trú ẩn. Trên trời từng tốp máy bay ào ạt hiện ra. Chúng bay theo hình tam giác nhọn. Chiếc máy bay giống như hình vĩ ruồi, thỉnh thoảng lại sáng lên lấp lóa trong nắng. Trong các căn hầm Cồn Cỏ, một nhóm trẻ em thò cổ ra, có vẻ rất hứng thú đếm “Một chiếc, hai chiếc, ba, bốn, năm, sáu… nhiều quá tụi bay ơi, hôm nay chắc đánh nhau to”. Tiếng pháo phòng không đặt ở ga Bỉm Sơn, cả trận địa bên cầu Cừ đồng loạt nhả đạn. Tiếng pháo 37 ly nổ từng hồi, tiếng súng 12 ly 7 nổ thành từng tràng liên thanh. Trên trời, xung quanh tốp máy bay hiện những cụm khói trắng lập lòe, tiếng đạn nổ lụp bụp như bắp rang, văng miểng thành trận mưa rơi rào rào trên lá cây, lủm bủm dưới mặt nước. Máy bay Mỹ bổ nhào ném bom. Khói bốc lên thành cụm hình nấm rồi tiếng nổ dội đến. Nhìn từ xa, có lẽ chúng ném bom cầu Hàm Rồng, cầu Đò Lèn. Còn cầu Cừ? Nhưng ai đứng trên cầu thế kia, lại còn mặc áo trắng nữa, chắc là phản động chỉ điểm cho máy bay Mỹ rồi? Một người tự vệ thét to:

    - Anh kia, xuống hầm ngay! - Thoại không nhúc nhích. Người dân quân tự vệ gào lạc giọng:

     - Mặc áo trắng, máy bay Mỹ phát hiện ra là chết!...

    Mặc, Thoại đứng trên cầu như câm, như điếc, cúi đầu ngẫm nghĩ. Thì cứ để bom đạn giết chết mình đi cho nhẹ nhàng. Sống ở trên đời mà không có ý nghĩa thì chết còn sướng hơn…

    Một tốp máy bay tách đội hình và một chiếc chúi xuống, càng thấp nó càng hiện to hơn, tiếng rít động cơ chói tai, hai quả bom tách ra khỏi thân máy bay lao xuống. Thoại là người nhìn chính diện nên anh không còn thấy cánh, đuôi máy bay mà chỉ thấy một khối tròn đen sì, lớn rất nhanh. Quen với cảnh này trong chiến trường, anh biết chúng ném bom vào nơi mình đứng. Anh hiên ngang giơ hai tay hình chữ V lên trời thét to: “Ông tổ ơi!”. Tiếng kêu đau thương bị ngắt quãng bởi khối lửa bùng lên. Những người gần đó chứng kiến giây phút máy bay vọt qua đầu họ, vòng trở lên, phơi bụng trắng xóa. Ngọn lửa chói lòa và tiếng bom dậy đất, tức ngực. Bụi khói dày đặc trùm lên cây cầu. Bụi tan lộ ra hai hố bom toang hoác, bốc khói nồng mùi thuốc súng…

    *

    *   *

    Thoại thấy nhẹ bổng, lơ lửng trên không. Anh bay nhanh về làng Gia Miêu ngoại trang. Trên cao anh thấy quê mình thật đẹp, kia là dãy núi Bái Sơn xanh đậm bởi rừng nguyên sinh, uốn lượn trong mây như con rồng đang vươn mình về phía biển, đuổi theo dãy Tam Điệp như những đàn hổ dữ lần mò xuống biển Đông. Xa về phía Nam là sông Lèn, một nhánh của sông Mã, quanh co uốn khúc bên những cánh đồng lúa, ruộng ngô xanh tốt. Xã Hà Long, tên quê anh có con sông mang dáng rồng bên dãy núi cũng hình rồng, có phải nơi đây chính là mảnh đất địa linh nhân kiệt mới phát tích chín chúa, mười ba vua? Kia là miếu Triệu Tường, giờ chỉ là một mảnh đất phẳng xanh um tùm những vạt mía. Anh bay về núi Thiên Tôn, rồi đứng trước lăng Trường Nguyên, nơi mộ phần của bảy vị khai quốc công thần và tướng lĩnh dòng tộc anh, bắt đầu từ thủy tổ Nguyễn Biện, tứ tổ Nguyễn Công Duẩn, cho đến Triệu tổ Nguyễn Kim.

    Chuyện kể rằng khi Nguyễn Kim mất, vua Lê vô cùng thương tiếc, truy tặng ngài tước Chiêu Huân Tĩnh Công, thụy là Trung Hiếu. Linh cửu ngài đưa về đây. Khi chuẩn bị táng, một cơn giông gió nổi lên, sấm sét đùng đùng, mưa như trút nước, khiến dân làng sợ hãi bỏ chạy. Trời tạnh, một khung cảnh khác hẳn hiện ra. Xung quanh cây cối tốt tươi, như chưa có việc gì xảy ra, quan tài và và Long khẩu (huyệt táng) biến mất. Người ta truyền miệng bao đời rằng linh cửu Người đã được thiên táng, hổ táng. Bởi vậy con cháu dòng tộc và các chức sắc họ Nguyễn chỉ hướng vào núi Thiên Tôn bái vọng(2).

    Bây giờ, không hiểu sao tổ lại đưa Thoại trở về khu lăng mộ này? Anh đang ngơ ngác nhìn thì thấy có tiếng gọi:

    -           Hậu sinh, lại đây nào?

    Thoại dụi mắt đứng nhìn, kia rồi, ngay cạnh Phương cơ, một vị đại quan đang ngồi. Có vẻ đó là quan văn vì ngài đội mão có đỉnh tròn gọi là viên phát đầu, mặc áo màu cổ đồng, thêu con hạc to và hình tứ linh, đi đôi hia mũi hình vuông với bít tất viền lụa màu. Ngài để râu dài, mắt sáng quắc, khuôn mặt xương xương…

    Thấy vẻ quen thuộc trên nét mặt vị đại quan, Thoại mon men lại gần hỏi:

    -           Ông là ai?

    Vị đại quan vuốt râu cười khà khà, tiếng ông vang như như sấm:

    -           Ta vừa được Cao Hoàng Đế sai đến đón hậu duệ của dòng họ Nguyễn về Phú Xuân gặp Ngài - Ngừng một chút vị đại quan tiếp - Ta quên chưa giới thiệu, ta là Tham tri bộ Lễ thời Nguyễn Vương, tên là Ngô Tòng Chu.

    Thoại nghi ngờ và sử dụng bài “chống gián điệp” anh đã được huấn luyện khi ở trong lực lượng thanh xung phong để xác minh tung tích:

    -           Ông nhận là Tham tri bộ Lễ thời Nguyễn Vương thì ông phải biết mộ cụ Nguyễn Kim táng ở đâu?

    Ngô Tòng Chu nhìn Thoại bằng ánh mắt thương hại:

    - Ngươi bị nhiễm thói nghi ngờ của hậu thế. Ta nói cho ngươi biết, Cụ táng ở đây. Dân làng bịa ra chuyện trời táng, hổ táng là để sau này không ai biết huyệt mộ ông tổ Nguyễn Vương ở đâu mà phá lăng, đào mộ.

    - Rất hợp lý - Thoại reo lên như thời con nít đọc được một bí mật khoa học, và tiếp tục tra xét: - Nhưng tại sao Nguyễn Ánh “Cõng rắn cắn gà nhà” lại chiến thắng được Anh hùng dân tộc Quang Trung?!...

    Ngô Tòng Chu quắc mắt:

    - Ngươi chớ nói càn. Không có chuyện hơn thua vì Nguyễn Vương được trời cho thu phục giang san nên trời cho Nguyễn Huệ mệnh yểu, bắt phải chết sớm. Ta nhắc lại, con dám nói những lời nghịch tử như vậy sẽ bị khép vào tội trảm. Nguyễn Vương anh hùng mới được thiên định giao cho việc mở cõi. Con mở to mắt để ta cho con thấy tài điều binh khiển tướng của Chúa công ta trong trận Thị Nại(3).

    Thoại lại thấy mình lướt đi nhẹ như không có trọng lượng, lại những con sông, những dãy núi, những cánh đồng, những thửa ruộng như trên bàn cờ vùn vụt lướt qua dưới tầm nhìn của anh. Chớp mắt anh đã đứng trước một eo biển, ngoài khơi sóng lượn nhấp nhô, càng xuống thấp anh càng thấy rất nhiều tàu thuyền, chúng đều có buồm với nhiều màu sắc, hai bên sườn là hàng mái chèo đều tăm tắp, rõ ràng không phải những con tàu thời anh đang sống vì bây giờ chẳng còn tàu nào dùng bơi chèo.

    Thoại được nhìn toàn cảnh đầm Thị Nại. Nó rộng khoảng 5000 ha, dài chừng 10 cây số, chỗ rộng nhất khoảng 4 cây số, có dòng sông Côn, sông Hà Thành đổ nước về. Phía cửa đầm thông ra biển gọi là cửa Giã hẹp lại như miệng một chiếc bình. Đang mùa nước lên, mặt đầm rộng mênh mông, sóng nhấp nhô như biển. Theo tay chỉ của Ngô Tòng Chu, Thoại thấy hai chiếc tàu lớn như hai tòa nhà ba tầng sừng sững, phấp phới lá cờ có chữ Định Quốc đậu chắn ngang cửa Giã. Cặp bên hai chiếc chiến hạm này là hàng trăm chiến hạm đậu san sát theo hình cánh cung, bọc lót cho hai đại thuyền Định Quốc, trong đầm hàng ngàn chiến thuyền đậu thành đội hình tác chiến có trật tự. Thoại đã thấy trên tàu Định Quốc có hàng trăm khẩu đại bác hạng nặng đen sì chĩa nòng ra biển, sẵn sàng khạc lửa. Các loại tàu cỡ trung, cỡ nhỏ khác cũng tua tủa đại pháo. Trên bờ, sát mép đầm là ba vòng lũy đã được đóng cọc, rào giậu cẩn thận, có quân sĩ canh giữ, đi tuần cẩn mật. Hai bên ở bãi Nhạn Châu, bên tả cửa đầm và bên hữu trên đỉnh núi Tam Tòa đều đặt đại pháo, ngoác họng đen sì, sẵn sàng khạc đạn, khống chế cả vùng cửa biển rộng lớn lẫn vùng đầm có thủy trại quân Tây Sơn đóng giữ. Gần cửa đầm, ở vị trí trên cao, tiêu cơ giống như đài quan sát, ra lệnh cho các vị trí phòng thủ trong đầm. Ngoài cửa đầm là đội quân hàng trăm thuyền nhỏ, gồm những người khỏe mạnh, bơi chèo thoăn thoắt, thuyền lướt nhanh như gắn máy băng băng tuần tiễu. Nhìn cách bố phòng, Thoại ngạc nhiên vì anh biết: Trước khi quân Nam Hà kéo ra Quy Nhơn, xảy ra một trận bão cực lớn làm đắm hàng trăm tàu thuyền của bọn Tề Ngôi, bẻ gãy hàng loạt cột buồm của chúng, loại khỏi vòng chiến lực lượng thủy quân của Tây Sơn vô cùng thiện chiến về đường thủy. Chúng là bọn cướp biển người Tàu vùng Lưỡng Quảng và Thiên Địa Hội ở Tứ Xuyên, khởi thủy chuyên đi cướp biển. Bà con ngư dân và thuyền buôn nước ta khốn khổ vì bọn cướp này. Tây Sơn đã liên kết với bọn giặc này, các đầu mục được Quang Trung phong chức Tổng binh.

    Kìa, tại Cù Mông, Nguyễn Vương đang cho thuyền ra khơi - Thoại trông thấy Nguyễn Ánh đứng trước mũi thuyền chỉ huy đoàn thuyền nhờ gió Nam thổi, buồm no gió, lướt sóng băng băng. Nguyễn Vương có dáng người tầm thước, thân thể cường tráng, da đỏ hồng, rám nắng, nét mặt cương trực. Ông khoác áo màu vàng, đầu đội khăn  trùm gọn búi tóc, gươm đeo xệ bên hông, dáng dũng mãnh của người đàn ông độ tuổi 39, đang độ chín của tài năng.

    Mấy giờ sau, thuyền của ông đã đến trước cửa Thị Nại. Ông quan sát thực địa để chuẩn bị cho trận đánh lớn. Nhìn thấy cách bố phòng cẩn mật của Đại Tư đồ  Vũ Văn Dũng, ông quay sang nói với Quân sư Đặng Đức Siêu: “Người ta nói Vũ Văn Dũng đứng đầu trong Tây Sơn hổ tướng quả không sai. Nhìn cách bày trận của ông ta thì biết, trong ngoài, trên dưới liên thủ nhau rất chặt chẽ, có kém gì Gia Cát Lượng thời Tam quốc”. Rồi Nam Vương ngửa cổ lên trời than rằng Trời chưa muốn ta diệt Tây Sơn chăng! Sao để cho tướng giỏi của ta bị khốn mãi ở đây?

    Ngô Tòng Chu hãnh diện nói với Thoại - Là Chúa thượng nói về ta và Đại tướng quân Hậu dinh Võ Tánh đang bị vây hãm trong thành Bình Định đó, tấm lòng bậc quân vương như thế thì tướng sĩ sẵn lòng chết vì xã tắc cho chủ tướng cũng không có gì là khó hiểu.

    Đoạn ông chỉ cho Thoại thấy Đặng Đức Siêu đang tấu trình Nguyễn Vương:

    - Bẩm Chúa công, nhìn cách Vũ Văn Dũng liên kết các chiến thuyền lại với nhau, bên trên lát ván có thể đi lại được như trên mặt đất, giống như cách mà Tào Tháo cho xích thuyền lại với nhau để chống sóng dữ thời Tam quốc trước trận Xích Bích?

    Nguyễn Vương cười lớn:

    - Ta cũng đã nghĩ như vậy, chìa khóa của trận này là chữ hỏa trong lòng tay ta và ngươi, đúng không?

    Đặng Đức Siêu cúi đầu:

    - Chúa công anh minh, đúng là trời giúp chúng ta rồi.

    - Vẫn thiếu gió Đông?

    - Bẩm Chúa công, phen này trời sẽ giúp Chúa công thắng lợi, trước khi ta xuất quân thì trời nổi cơn bão đánh tan tàu thuyền Tề Ngôi, nếu không thế dễ gì chúng ta được tự do ở đây. Thần xem thiên văn, đến trung tuần tháng này thời tiết sẽ thay đổi, sẽ có gió Đông cho chủ tướng đánh giăc.

    Nguyễn Vương ngửa cổ lên trời nói rằng: “Nếu trời ủng hộ nhà Nguyễn khôi phục lại giang san thì trung tuần tháng này hãy nổi gió Đông”.

    *

    *   *

    Rằm tháng Giêng năm Tân Dậu (1801), mới vào canh một trời đang quang, trăng tròn sáng vằng vặc, mặt biển rõ như ban ngày, bỗng nhiên mây đen kéo đến ùn ùn, mặt biển tối sầm, trời bỗng nổi gió Đông thổi từ ngoài khơi vào đất liền, sóng cuộn ầm ầm. Nguyễn Vương bước ra đầu thuyền, những nét ưu tư trên khuôn mặt vốn nghiêm nghị của ông dãn ra, chiếc nốt ruồi có chòm lông bên má trái phất phơ trong gió:

    - Trời giúp quân ta rồi. Báo ơn nước chính lúc này, sống thì cùng chung hưởng giàu sang, chết thì không quên ân điển. Tướng sĩ, xuất phát!

     Lệnh xuất quân được ban ra, chỉ trong thời gian ngắn hàng trăm tàu thuyền cùng nhất loạt xuất quân theo đội hình tác chiến. Tướng sỹ đều nô nức lên đường vì họ đều hiểu rằng trời đang ủng hộ họ. Đi theo Nguyễn Vương họ đã chứng kiến quả là chúa công có mệnh đế vương, không thế thì tại sao Người qua 18 lần thoát nạn. Có lúc cái chết tưởng mười mươi như lần Nguyễn Vương bị Tây Sơn truy sát phải chạy ra đảo Côn Lôn, bị phò mã Tây Sơn Trương Văn Đa mang tàu thuyền vây ba vòng trùng trùng điệp điệp.  Hôm đó, bỗng mưa gió nổi lên, bốn bề mây mù kín mít, trời biển tối sầm, trong gang tấc không nhìn thấy nhau, sóng to gió lớn làm cho thủy quân Tây Sơn tan tác, hàng loạt tàu thuyền bị nhấn chìm. Trời đã tạo cơ hội cho Nguyễn Vương thoát khỏi trùng vây.

    Lần này xuất quân, thủy quân Nam Hà cầu gió Đông là trời chiều lòng, gặp được sự tốt lành như báo trước thắng lợi. Còn Nguyễn Vương như trút được gánh nặng. Mấy đêm qua, Nguyễn Vương không ngủ được bởi vì Người trăn trở, bàn tính với bộ tham mưu, làm sao giành chiến thắng gọn ghẽ mà quân tướng thương vong ít nhất. Sắp đặt ai chỉ huy, đánh bằng cách nào là tối ưu nhất. Trong khi đó tin từ Gia Định cho biết Đông cung Cảnh đang bị bệnh nặng, nằm liệt giường hơn tuần nay, biết có qua khỏi được không? Chuyện nhà, chuyện nước ngổn ngang trăm mối. Tuy vậy chúa công vẫn nhân từ nhắc nhở quân sỹ: Phép binh cốt ở uy nghiêm, trị nước cốt ở nhân thứ, cho nên vương giả dụng binh chỉ cần dẹp yên giặc cho dân yên nghiệp làm ăn, ra trận phải chém giết là bất đắc dĩ…Phàm đối trận đánh nhau mới được chém giết, bằng sau trận bắt được thì không được giết bậy một người nào. Làm trái thì lấy quân pháp trừng trị.

    Trước Trận, Nguyễn Vương hỏi các tướng:

    - Tướng Tiên phong, ai lĩnh mệnh?

    Tống Viết Phước xin đi. Nguyễn Vương biết Phước là tướng dũng, đồng ý cho làm tiên phong.

    Nguyễn Vương sắp xếp lại quân ngũ. Để thống nhất về một mối, Nguyễn Văn Thành được quyền điều quân bát tướng sĩ toàn dinh, trên cả Nguyễn Hoàng Đức. Đức là tướng lãnh lão thành, có nhiều công trạng, lại lớn tuổi hơn Nguyễn Văn Thành, sợ Đức “tâm tư” nên Nguyễn Vương có dụ riêng: Khanh là cựu tướng lão thành, triều đình vốn trông cậy, nhưng quyền tiết chế bộ binh đã chuyển ủy cho Nguyễn Văn Thành, vậy từ sau có điều khiển thì khanh nên lấy xã tắc làm trọng mà nghe theo, chớ nên để ý đến kẻ cao người thấp.

    Nguyễn Vương có thư riêng cho Nguyễn Văn Thành, dặn kế nghi binh: Ban đêm bày bộ binh ra, làm ra vẻ cướp trại, khiến giặc không để ý đến mặt thủy. Nguyễn Văn Thành mật báo cho Đô thống chế tượng dinh Nguyễn Đức Xuyên. Lúc này Xuyên đang bệnh, nhân có người đội Tiểu sai Nguyễn Cửu Kỷ mang sâm của chúa ban, Xuyên nói với Kỷ: Ta nghe Chúa thượng muốn dùng hỏa công, Tống Viết Phước xin đi. Theo ý kiến của Xuyên, thì Phước dẫu dũng nhưng phải cái vội tiến, Lê Văn Duyệt thì dũng mà có mưu, nếu sai Duyệt đi thì việc chắc thành công. Nguyễn Cửu Kỷ về tâu với Nguyễn Vương. Vương thấy tướng Nguyễn Đức Xuyên nói có lý, liền triệu Lê Văn Duyệt đến hành tại giao làm tướng tiên phong.

    Từ trên cao Thoại có cơ hội quan sát khắp trận địa. Đoàn thuyền của thủy quân Nam Hà đã đến cửa Thị Nại. Đạo quân thứ nhất do Đại tướng trung thủy dinh Võ Di Nguy trong đoàn hỏa thuyền đi tiền đội, Đô thống chế Lê Văn Duyệt đi sau, chỉ huy chiến thuyền quân tiên phong. Đạo quân thứ hai do Thủy dinh Đại tướng quân Nguyễn Văn Trương điều bát các đạo thủy binh chỉ huy. Đạo quân thứ ba do Nguyễn Vương chỉ huy. Bảo vệ Nguyễn Vương có ba tầu lớn bọc đồng đó là tàu Phượng Phi do cai đội Nguyễn Văn Chấn (Philirpe Vannier) làm thuyền trưởng. Tàu Long Phi do Cai đội Nguyễn Văn Thắng (Jean- Baptiste) làm thuyền trưởng. Tàu Bằng Phi do Cai đội Lê Văn Lăng (Godfrey De Foranz) làm thuyền trưởng.

    - Thưa Tiền bối - Thoại ngạc nhiên nhận xét - Hóa ra người Pháp chỉ làm đến chức cai đội, tổng số cũng chỉ mấy chục người thế mà các sử gia thuộc địa tô vẽ rằng, Bá Đa Lộc là tổng chỉ huy quân Nam Hà, là người đề ra sách lược, chiến lược cho quân Gia Định, nhờ có người Pháp bày mưu tính kế nên Nguyễn Vương mới chiến thắng quân Tây Sơn, thống nhất đất nước?

    Ngô Tòng Chu vuốt râu cười:

    - Những người Tây Dương kia khởi thủy chỉ là những người lính binh nhì, viết chữ Tây Dương chưa thạo, bị sung lính tình nguyện, đào ngũ sang làm việc cho Chúa công. Sức học cỡ đó, làm đến cai cơ là vừa rồi. Tài dùng người như Chúa công mà có tìm được người Tây Dương nào đủ sức giúp bày binh bố trận đâu…

    *

    *   *

    Cuối canh ba, mặt trăng đã ngả sau quả đồi mờ mờ phía xa, đoàn chiến thuyền của Nguyễn Vương vượt qua miền Thổ Dữ, tiếp cận cửa biển Thị Nại. Nhìn vào căn cứ Tây Sơn tưởng đó là một thành phố thời Thoại đang sống, đèn đuốc sáng như sao sa. Các tháp canh và các đồn đóng trên núi Tam Tòa những ngọn đuốc cháy sáng soi rõ một vùng thủy trại và đồn lũy đóng ngổn ngang; lính canh, lính tuần đi lại nhộn nhịp.

    Cuối canh tư, lúc này tinh thần quân sỹ mỏi mệt, tiếng trống, tiếng mõ cầm canh, tiếng hô của quân lính đi tuần yếu ớt, rời rạc. Thường giờ này người ta dễ chìm trong giấc ngủ say. Ánh trăng nhạt nhòa, gió Đông lại thổi mạnh hơn, sóng biển đẩy nước thủy triều lên cao, réo ồ ồ đổ vào cửa đầm Thị Nại, rất thuận cho tàu thuyền của quân Nam Hà áp sát và tiến công.

    Nguyễn Vương biết nếu xảy ra giao chiến thì tướng giặc sẽ cử một lực lượng lớn quân kéo qua hẻm núi để cứu viện nên sai Hoàng Văn Khánh mai phục chặn đánh. Lại sai Trần Văn Hiếu cải trang quân Tây Sơn đem thủy binh bơi thuyền nhỏ cặp sát bờ, bí mật lẻn đến Tiêu cơ phóng hỏa. Gặp quân tuần tiễu của Tây Sơn do Đô ty Nguyễn Văn Độ đi tuần, Hiếu cho quân áp sát rồi bất ngờ tiến công. Độ và toán quân tuần tiễu không kịp trở tay, đều bị bắt sống nên đoàn thủy binh của Trần Văn Hiếu hoàn toàn giữ được bí mật. Hiếu tra khảo bọn lính, lấy được mật khẩu nên đoàn quân cứ việc tiến sâu vào thủy trại địch, thẳng đến Tiêu cơ mà không bị phát hiện. Trong khi đó Võ Di Nguy chỉ huy 20 hỏa thuyền lặng lẽ lẻn vào trong đầm, bọn lính canh không hề hay biết. Khi các vị trí đã đâu vào đấy thì quân của Trần Công Hiếu nổi lửa đốt Tiêu cơ. Quân Tây Sơn thấy lửa cháy, trong quân la hét chạy toán loạn, nhân cơ hội đó quân của Hiếu, kết hợp với quân của Tống Phước Lương, Trần Đăng Long ập đến chém túi bụi.

    Thấy lửa ở Tiêu cơ bốc cháy, Nguyễn Vương ra lệnh cho toàn quân đội tiến công. Đại tướng Nguyễn Văn Thành thấy hiệu lửa cháy ở Tiêu cơ liền chia quân từ sườn núi đánh xuống thủy trại, chia lửa với thủy quân. Hai tàu Định Quốc lập tức khai hỏa, bắn đại pháo ra cửa biển đùng đùng, lửa đầu nòng sáng lòa. Trên núi Tam Tòa, hàng trăm khẩu đại pháo cũng chúc nòng xuống cửa biển nã đạn giòn giã, lửa đạn sáng rực, rung chuyển cả đất trời. Tiền chi Hoàng Văn Khánh chỉ huy quân tinh nhuệ đánh úp Dạ Áo, tấn công vào lũy giặc. Tiếng trống trận thúc liên hồi, tiếng tù và tiếng la hét của quân sỹ, tiếng gươm giáo đụng nhau chí chát ghe rợn người, tiếng đại bác, tiếng đạn rít trên đầu… tưởng như trời long đất lở.

    Ngoài cửa đầm, Tư đồ Vũ Văn Dũng chỉ huy hơn trăm chiến thuyền túa ra chặn chiến thuyền của Lê Văn Duyệt được pháo hạng nặng trên đồn Tam Tòa bắn xuống dọn đường. Hai bên sáp vào, rất hăng. Nước thủy triều càng dâng cao, kèm theo gió thổi từ ngoài khơi vào rừng càng đẩy thuyền của quân Lê Văn Duyệt lướt băng băng áp nhanh vào thuyền quân Tây Sơn. Thoại nhìn thấy phía bên tả tướng thấp nhỏ, vẫy cờ đỏ, thúc quân sỹ tiến lên. Phía bên hữu, tướng cao lớn cầm cờ xanh đỏ cũng vẫy lia lịa thúc quân xông trận.

    Lúc thuyền áp sát nhau, hai tướng múa gươm xông vào chém quân địch, “liều mình như chẳng có”. Bỗng phía sau quân của Tư đồ Vũ Văn Dũng lửa cháy sáng rực, lửa lan thành bức tường dài hàng cây số, bốc lên ngang trời. Quân Tây Sơn nhốn nháo la to, “thủy trại bị đánh hỏa công rồi”. Thì ra đoàn thuyền của Võ Di Nguy đã áp sát thuyền quân Tây Sơn, đầu thuyền đã đóng đinh sắt, quân lính liền lấy móc câu móc vào thuyền địch rồi phóng hỏa. Củi khô rưới nhựa trám nên bắt lửa rất nhanh, được gió Đông thổi cháy bùng lên thiêu sống không biết bao nhiêu người. Lửa lan đến thuyền chứa thuốc súng cháy nổ đùng đùng. Tàu quân Tây Sơn lại được liên kết vào nhau, trên bắc ván đi lại được nên không thể tách ra chạy thoát tường lửa. Một vùng đầm Thị Nại trở thành biển lửa. Quân Tây Sơn kẻ chạy trốn, kẻ nhảy xuống đầm nước chết chìm, kẻ chống trả bị quân Nam Hà chém chết, thây nằm la liệt.

    Mặt trời to tròn đỏ như quả cầu lửa chui lên từ mặt biển rập rờn sóng gió, một bình minh không yên tĩnh đến trong khói lửa và trong âm thanh tưởng như trận động đất. Ánh sáng phơi ra trên đầm nước, trên các bãi cát những xác người máu me bê bết. Hai đội quân vẫn còn hăng chiến, như không biết gì đến buổi ban mai, lẽ ra rất đẹp, rất thơ mộng. Trời sáng lại là lợi thế của quân Tây Sơn vì lúc này họ mới phát huy được ưu thế của các khẩu đại bác. Đêm qua họ cũng có sử dụng hỏa lực nhưng vì tối trời nên không phân biệt đâu là quân ta, quân địch. Bây giờ mọi thứ phơi bày ra trước mắt, các họng đại bác chễm chệ trên núi Tam Tòa, trên hai đại thuyền Định Quốc. Quân Nguyễn Vương bắt đầu hứng những đợt đại bác bắn xuống như mưa. Nhiều chiến thuyền của quân Nam Hà trúng đạn, chao nghiêng rồi chìm nghỉm. Tướng cao lớn Võ Di Nguy thấy tàu của quân mình trúng đạn vẫn vẫy quân xông lên. Bỗng một loạt đạn rầm rầm trúng vào thuyền của ông làm chiếc thuyền vỡ tan, tướng cầm cờ ngã xuống, giãy đành đạch. Quân Nguyễn khựng lại, mấy người đứng ở gần đó khiếp đảm chạy lui. Chợt nghe tiếng quân lệnh “Ai chạy lui sẽ bị chém đầu”. Lệnh của viên tướng thấp bé đang hăng máu la hét quân sỹ xông lên, đó là tướng tiên phong Lê Văn Duyệt. Khói thuốc súng khét lẹt, khói bay mù mịt, tiếng pháo nổ oành oành liên tiếp vang trời chuyển đất, pháo của hàng ngàn chiến thuyền Tây Sơn cùng lúc khạc lửa. Quân Tây Sơn đã chỉnh đốn lại đội ngũ, xông lên quyết không nao núng. Quân Gia Định cũng hăng máu xốc tới quyết giành thắng lợi. Quân Gia Định có vẻ núng thế. Nguyễn Vương thấy quân sỹ thương vong nhiều, giặc đang có ưu thế về hỏa lực nên cho tiểu sai cầm bài rồng đến nói với tướng tiên phong Lê Văn Duyệt:

    - Trình quan thống chế, Đức chúa truyền cho lui binh để bảo toàn lực lượng.

    Lê Văn Duyệt, mặt lấm đầy máu me và vết bầm, ngoảnh lại, nhìn thấy bài rồng, sợ quân sỹ nao núng, quắc mắt nói như thét:

    - Ngươi về bẩm với Chúa thượng, ta liều chết giành cho được thắng lợi chứ nhất quyết không lui binh.

    Rồi bỏ mặc tên Tiểu sai đứng đó, Duyệt vẫy cờ đốc thúc quân sỹ liều chết xông lên. Ông ta cầm gươm đứng choãi chân trên thuyền chém tới tấp vào quân địch. Trận chiến càng lúc càng ác liệt. Xác người ngổn ngang trên sạp thuyền, máu đỏ tươi, chảy xuống biển làm cả vùng đầm nước trở thành màu hồng trong ban mai rực lửa.

    Bỗng trời chuyển gió Đông Nam, làm cho thuyền của quân Gia Định gặp thuận gió, bởi đầm Thị Nại ngoài biển đi vào từ hướng Đông tới hướng Tây, nhưng vào trong đầm lại là hướng Đông Nam. Quân Nam Hà đã vào qua cửa đầm thì không còn thuận gió nữa. Hỏa công đã phát huy tác dụng, đốt cháy tàu địch bên tả đầm, nhưng còn bên hữu chưa thuận gió nên không thể dùng hỏa công. Nguyễn Vương thấy đổi gió Đông Nam, giơ tay lên trời khích lệ ba quân: “Người tính không bằng trời tính. Hỡi tướng sỹ, thời cơ đến rồi! Các ngươi hãy liều chết, xông lên!”. Lời Chúa thượng khích lệ toàn quân hăng hái lao vào giáp chiến. Ông liền ra lệnh cho quân sỹ đánh vu hồi vào sau lưng quân Tây Sơn; tiến công về bên hữu đầm, nhanh chóng dùng hỏa công. Các tàu thuyền tấn công chính diện khẩn trương áp sát hai tàu Định Quốc.

    Lúc này các họng súng trên núi Tam Tòa chợt câm bặt. Thì ra Đại tướng Nguyễn Văn Thành đã cho quân bộ tập kích lên núi Tam Tòa nhanh chóng bịt họng hàng trăm khẩu pháo hạng nặng đang khống chế cả một vùng rộng lớn, rất nguy hiểm cho đại quân chiến đấu dưới đầm nước. Từ đêm qua ông đã cho quân thiện chiến đánh lên núi Tam Tòa, nhưng vì địch ở thế trên cao, lăn gỗ đá xuống làm cho quân sỹ thương vong rất lớn. Lúc trời sáng, quân Gia Định lợi dụng địa hình địa vật tiến lên và cuối cùng đã đánh tan đội quân cố thủ trên cao. Nguyễn Vương hiểu rõ tài năng của Nguyễn Văn Thành, nói với Quân sư Đặng Đức Siêu: “Người ta nói Nguyễn Văn Thành đứng đầu các hổ tướng Gia Định quả không sai”.

    Đúng như nhận định của Nguyễn Vương, khi quân Gia Định áp sát hai tàu Định Quốc thì đại bác của quân Tây Sơn hết phát huy tác dụng. Quân Nam Hà tung đuốc tẩm nhựa trám lên hai chiếc tầu đồng. Tàu Định Quốc chứa nhiều thuốc súng, bén lửa cháy rần rật làm hàng trăm lính trên tàu cháy theo. Đô đốc Nguyễn Văn Dũng, không kịp cởi chiến bào, nhảy xuống nước, bị bộ áo giáp kéo chìm mất dạng.

    Phía sau lưng địch, Lê Văn Duyệt đánh sát ra cửa đầm. Quân của Nguyễn Văn Trương cùng thuyền Long Phi, Bằng Phi, Phượng Phi của ba ông Tây Dương chỉ huy đánh áp vào. Quân Tây Sơn núng thế, tướng Nguyễn Văn Trương đánh rất hăng, chém chết hàng loạt tướng địch. Đô đốc quân Tây Sơn Nguyễn Văn Trà thấy phía trước là đại quân của Nguyễn Vương, phía sau là quân của Nguyễn Văn Trương, Tống Phước Lương đánh ép quân mình vào giữa, chưa tìm ra cách xoay trở đã bị Nguyễn Văn Trương chém bay đầu. Quân sỹ của Đô đốc Trà hoảng loạn nhảy cả xuống nước chết đuối rất nhiều.

    Tư đồ Vũ Văn Dũng chỉ huy cánh quân bên hữu còn lại chống trả quyết liệt, nhưng khi gió Đông Nam thổi đến lại thấy bức tường lửa của quân Gia Định dựng lên cháy ràn rạt về phía quân mình, bèn ngửa cổ lên trời than: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Bất khả cường dã”. Bỗng thấy đứng đầu thuyền một người cầm kiếm Thái A, mặc áo chiến màu vàng, đội nón chiến chỉ vào Dũng: “Giặc Vũ Văn Dũng, bỏ gươm xuống đầu hàng đi”. Dũng nghe nói nhiều về Nguyễn Phúc Ánh, đến bây giờ mới nhìn thấy mặt, nghiến răng thét to: “Ta quyết sống mái với ngươi”, rồi xua quân xông thẳng vào thuyền Nguyễn Vương. Đây là thuyền Long Phi, bọc đồng. Ông tây Nguyễn Văn Thắng mặt mũi đỏ au, vung gươm xáp vào chém giết rất hăng làm cho quân của Vũ Văn Dũng phải thối lui. Biển lửa càng lúc càng lớn thiêu cháy không biết bao nhiêu chiến thuyền của quân Tây Sơn. Hai tàu Định Quốc cuối cùng cũng chìm xuống nước sâu, chôn theo hàng trăm quân chết cháy và hàng trăm khẩu đại bác. Thủy trại của quân Tây Sơn đều làm bằng gỗ và tre nứa nên bắt lửa rất nhanh, nổ đùng đùng, cháy ngút trời. Vũ Văn Dũng cùng với vài trăm quân còn sống sót nhảy lên bờ, vội thu gom tàn quân chạy về phía quân của của Trần Quang Diệu bên ngoài thành Bình Định.

    Mặt trời lên cao, gió Đông Nam ngừng thổi, trận đánh cũng kết thúc. Đầm Thị Nại trở nên quang đãng hẳn. Ven bờ chỉ còn những đụn khói bốc lên. Mùi thịt người, mùi thuốc súng cháy khét lẹt. Hàng trăm tàu thuyền cháy dở nằm ghếch đầu lên bờ bãi nghi ngút khói. Hàng ngàn tàu thuyền của Tây Sơn, chiếc thành tro bụi, chiếc chìm sâu dưới đáy đầm. Xác người ngổn ngang. Thoại vỗ tay như một đứa trẻ, “Đúng là thiên hạ đệ nhất vũ công, hoan hô Nguyễn Vương, ông tổ đúng là đấng anh hùng, hoan hô quân sỹ Gia Định”.

    Cũng bị lây phấn khởi, Ngô Tòng Chu gật đầu:

    - Thắng trận này, quân ta phá tan hầu hết tàu thuyền của quân Tây Sơn, thế của ta mạnh, thế của Tây Sơn suy. Ta hơn họ về đánh thủy, nên sau này đánh với vua Tây Sơn Nguyễn Quang Toản ở cửa Tư Điền, phía Đông Phú Xuân, quân Tây Sơn đã bị mất tinh thần nên dễ vỡ trận. Quân Nguyễn Vương tiến thẳng về Phú Xuân. Chúa công ta chiếm lại kinh đô cũ sau gần ba mươi năm rời kinh thành bôn ba tìm đường phục quốc…

    Nhìn vào mắt Thoại, Ngô Tòng Chu tiếp:

    - Ta biết trong lòng con vẫn ngờ rằng Chúa công ta nhờ Tây Dương mới thắng Quang Trung. Giờ, con đi theo ta về năm Nhâm Tý (1792)(4)…

    *

    *   *

    Thoại lại thấy mình lướt rất nhanh, lại những con sông, những ngọn núi, những thửa ruộng vun vút lùi lại phía sau. Kia là sông Đồng Nai, khi đổ về hạ lưu chia ra hai nhánh, cách không xa là sông Sài Gòn uốn lượn, cũng trên bến dưới thuyền tấp nập, trù phú hơn kinh đô Phú Xuân. Thành Gia Định kiến trúc theo hình bát quái, rộng rãi, vững chắc nằm bên sông Bến Nghé nước cuồn cuộn chảy. Thoại thấy mình đứng trong hành tại của Nguyễn Vương. Lúc này Chúa công tráng kiện, khuôn mặt đầy đặn, nước da rám nắng của người dầu dãi, bước đi nhanh nhẹn của một chàng trai mới trưởng thành. Thoại nghe rõ chất giọng miền Trung đầm ấm, của người cha lúc Nguyễn Vương nói chuyện với Hoàng tử Cảnh, còn ở tuổi thiếu niên:

    -           Chút nữa gặp Thượng sư của con.

    Hoàng tử cúi đầu, lễ phép:

    -           Thưa Phụ hoàng, có điều chi hệ trọng?

    -           Thầy đến chào chúng ta để về cố quốc.

    -           Hài nhi thấy Phụ hoàng đối đãi rất tốt với Thượng sư, sao thầy nỡ bỏ con...

    -           Con làm sao hiểu được lòng dạ người Tây Dương. Chỉ tại ông ta và một số người Tây Dương thấy rằng Tây Sơn Nguyễn Huệ vừa đại thắng quân Thanh, thanh thế lẫy lừng, đang chuẩn bị đem ba mươi vạn quân đánh vào Gia Định của ta. Theo thiển nghĩ của họ, chúng ta khó mà chống cự lại một đội quân đang lẫy lừng thanh thế. Họ sợ liên lụy đến tính mạng mà chạy trước đó thôi.

    -           Phụ hoàng đã có kế gì chống lại giặc Tây Sơn, giữ gìn bờ cõi?

    -           Lúc cha gửi con cho Bá Đa Lộc sang Tây Dương, con mới ba tuổi, cha chỉ còn vài chục người đi theo, có lúc phải nhịn đói, phải đi xin ăn. Bây giờ Cha có gần một nửa nước với đội quân hùng hậu, há lại sợ giặc Tây Sơn ư?

    Ngay lúc đó có người lính hầu bước vào cúi lạy, nói:

    -           Bẩm… Có thầy Bá Đa Lộc xin bái kiến.

    -           Truyền cho vào.

    Nói xong, Nguyễn Vương bước lại ngai vàng. Hoàng tử Cảnh vội lui vào sau trướng.

    Một người Tây Dương to cao, khuôn mặt dài, cằm núng nính thịt, trán rộng, mắt sâu bước vào. Ông ta khoác áo màu xanh ngọc, cổ áo hình chữ nhật màu đen, hàng khuy và ống tay áo rộng viền màu đỏ, trước ngực lủng lẳng cây thánh giá. Ông quỳ xuống theo nghi lễ của nước Việt; Nguyễn Vương vội chỉ tay vào chiếc ghế đối diện nói:

    -           Miễn lạy! Khanh ngồi vào ghế.

    Bá Đa Lộc ngồi xuống ghế, nói tiếng Việt lơ lớ:

    - Bẩm Chúa thượng. Thần đến đây để xin với Chúa thượng cho thần được trở về cố quốc. Thần cảm ơn Chúa thượng đã giúp chúng thần trong thời gian qua. Nhưng ở trong nước chúng thần cũng còn rất nhiều việc phải làm.

    Nguyễn Vương nghĩ nhanh, cho những người Tây Dương này về thì được thôi, thời gian qua họ cũng không giúp được nhiều việc, có lẽ vì ta không tin dùng họ. Ngoài ý muốn làm cho Tây Sơn lo sợ vì Gia Định có người Tây Dương giúp việc, bày mưu, với lại cũng là cách hiệu triệu dân chúng theo đạo. Họ cũng tạo ra không ít phiền toái, ngày Hoàng tử Cảnh mới về nước đã không chịu vái lạy bàn thờ tổ tiên. Gần chục năm họ ở đây đã nắm rất rõ những bí mật về quân sự, xã hội của nước Nam. Họ ở lại rồi đi theo Tây Sơn thì thành đại họa. Nguyễn Vương chưa biết trả lời thế nào cho phải thì Bá Đa Lộc, vốn là người rất thông minh và hiểu rõ lòng dạ Nguyễn Vương, nói tiếp:

    -           Thần cũng xin lỗi Chúa thượng, gần mười năm qua thần cũng đã hết lòng giúp rập, nhưng cũng không thành việc gì. Ngày Chúa thượng giao Hoàng tử Cảnh cho thần sang cầu viện nước Pháp, nhưng nước Pháp không giúp, thần cũng có đi vận động nước Pháp giúp Chúa thượng vũ khí, tàu thuyền, kỹ thuật súng đạn… nhưng rút cuộc, cũng chẳng được khẩu súng, con tàu nào….

    -           Quả nhân cũng cảm ơn Đức Giám mục đã dạy bảo Hoàng tử Cảnh nên người. Quả nhân cũng đã có thư gửi cảm ơn Hoàng đế Tây Dương vì đã không giúp. Chính vì vậy mà Gia Định mới có ý chí tự cường...

    Chợt có người lính hầu bước vào cúi đầu tay dâng ngang mày bức thư vẻ trịnh trọng. Nguyễn Vương hiểu, hiếm khi ông đang tiếp khách mà có người đột ngột vào dâng thư, đó phải là việc cực kỳ quan trọng. Nguyễn Vương liền bóc thư ra xem, đoạn ngồi thừ trên ngai vàng, khuôn mặt đăm chiêu.

    Sực tỉnh, Nguyễn Vương ngẩng lên, nói với Bá Đa Lộc:

    -           Tin báo về: Tây Sơn Nguyễn Huệ chết rồi.

    Khuôn mặt Bá Đa Lộc bỗng giãn ra, như trút được gánh nặng, ông nở nụ cười tươi:

    -           Bẩm Chúa thượng, là tin tốt lành, sao Chúa thượng không vui?

    Nguyễn Vương ngậm ngùi:

    -           Ta tiếc không còn cơ hội đọ sức với ông ấy nữa. Đó là một người anh hùng nhưng bạc mệnh. Giờ thì Đức Giám mục an tâm ở lại giúp chúng tôi rồi chứ?

    Biết mình lỡ lời, Nguyễn Vương dừng ngay lại. Bá Đa Lộc sượng sùng, nhưng là nhà truyền giáo, ông ứng xử rất nhanh, với một thái độ thẳng thắn, tôn trọng sự thật:

    -           Vâng, chúng thần xin ở lại sát cánh bên Chúa thượng, góp sức cho đến ngày toàn thắng.

    Thoại từng nghe kể Bá Đa Lộc chết vì một trận dịch tả năm Kỷ Mùi (1799), giờ anh hiểu thêm, ông ta mất trước cả năm diễn ra trận đánh Thị Nại nên không được biết Nguyễn Vương có tài thao lược còn hơn cả những gì ông biết…

    *

    *   *

    Ngô Tòng Chu nắm lấy tay áo của Thoại kéo đi, hai người bay vun vút, qua những con sông rộng quanh co, lấp lánh ánh bạc, qua những dãy núi hùng vĩ, những ngọn tháp đầy nắng đứng cô đơn trên những đỉnh đồi, chỉ thoáng sau họ đã đến vùng có cảnh đẹp như tranh vẽ, sông Hương trong xanh trôi giữa mây trời, uốn lượn quanh những quả đồi xanh biếc; chùa Thiên Mụ soi mình trong dòng Hương Giang, vươn tháp nhọn lên bầu trời lửng lơ những vầng mây trắng. Xa về hướng Tây, dãy Trường Sơn hùng vĩ nhấp nhô, phủ một màu xanh đậm của rừng già nguyên sinh, làm chỗ dựa cho kinh thành Phú Xuân. Phía Đông, biển xanh tung bọt trắng xóa vào bãi cát mịn màng. Kinh thành tấp nập xe ngựa, nhà cửa trên bến dưới thuyền san sát.

    Kìa rồi kinh thành Huế. Lầu son gác tía dưới lá đại kỳ bay phấp phới trên Đại Nội. Điện Thái Hòa lộng lẫy, uy nghi. Lúc này sân Điện Thái Hòa tấp nập những người. Đang buổi thiết triều, vua Gia Long ngồi uy nghi trên ngai vàng. Gần nơi ngài ngồi là các vương gia, các quan tứ trụ triều đình, dưới sân chầu, các quan văn võ đứng thành hai hàng lớn nhỏ theo thứ bậc, quan văn bên tả, quan võ bên hữu.

    Ngô Tòng Chu thì thầm cho Thoại vừa nghe:

    - Hoàng đế đang bận buổi thiết triều, ta đưa con đến để yết kiến. Nhớ không được nói những lời phạm thượng, những chữ phạm húy…

    Thoại quỳ trước ngai vàng vua Gia Long, dập đầu năm cái, không dám ngước lên nhìn mặt rồng. Tiếng nhà vua truyền ra:

    - Bình thân. Ngươi đã nghe Tham tri bộ Lễ nói chuyện về thời của tiên tổ. Giờ ngươi còn điều chi chưa thấu hiểu?

    - Bẩm bệ hạ, thảo dân đã hiểu, nhưng không biết phải làm cách nào để đời sau hiểu đúng công lao tiên tổ…

    - Vì vậy đã làm liên lụy đến đời của cháu, đúng không. Lịch sử bao giờ cũng khách quan, không ai có thể thay đổi lại được lịch sử. Không nên giải thích lịch sử bằng cách chôn vùi sự thật. Tuy nhiên thời nào cũng có sai lầm, cái chính là biết sớm nhận ra sai lầm mà sửa chữa. Thời của cháu, gọi là “Cải cách ruộng đất” phải không, đã sửa chữa rồi. Nào, nhà của cháu đã được trả lại, cái mà thời cháu gọi là “thành phần gia đình” đã sửa sai, “Lệnh” (Quyết định) ban ra từ năm Đinh Dậu (1957) “Lệnh” còn nằm trên phủ, cũng tại thuộc cấp chưa trao lại cho gia đình cháu.

    - Bẩm bệ hạ, thảo dân rất đau lòng về đình miếu tiên tổ đã bị phá sạch, không còn chỗ để thờ cúng.

    Vua Gia Long có vẻ giận:

    - Ta nói cho ngươi biết: Lăng miếu của ta, có nơi nào bị tàn phá, ta không oán trách nếu những người dại dột đó biết xả thân để bảo vệ giang san của ta. Ta cho phép, khi nào đuổi hết giặc ngoại xâm rồi sửa lại để cho các ngươi thờ tự cũng không muộn. Ta biết, ngươi chọn cái chết hèn nhát, ngươi còn đổ tội lại cho ta và tiên tổ của ngươi! Ngươi mau về cùng muôn dân bảo vệ giang san, biển đảo, không để bọn ngoại xâm giày xéo! - Rồi vua Gia Long hạ giọng - Thôi ta đưa cháu về để nhìn lại những đổi thay ở quê mình.

    Thoại bỗng thấy mình đã ở bên ngoài điện Thái Hòa, Tham tri bộ Lễ Ngô Tòng Chu nắm tay anh bay rất nhanh về làng Gia Miêu. Chiếc cầu Cừ giờ đã là cây cầu bê tông dự ứng lực hoành tráng. Quốc lộ Một trước đây chỉ có một làn xe, lồi lõm chỗ tráng nhựa chỗ vá đá đỏ giờ là đại lộ sáu làn xe có dải phân cách cứng, tấp nập ô tô, xe gắn máy phóng như bay. Con lộ đi Thạch Thành ngang qua nhà anh rải đá đỏ đã trở thành con lộ nhựa phẳng mịn màng, có vạch phân cách hai chiều. Bỉm Sơn vốn um tùm rừng núi bỗng biến thành thị xã với những tòa nhà cao tầng nhấp nhô sầm uất.

    Những căn nhà tranh vách đất ở quê anh biến thành những ngôi nhà lầu hai ba tầng khang trang. Và kỳ lạ không, miếu Triệu Tường bây giờ đã hiện ra hai tòa nhà ba gian hai chái, ngói đỏ, mái uốn lượn với nhiều trang trí đẹp lộng lẫy hơn xưa. Bên tả là nhà thờ Nguyễn Kim, bên hữu nhà thờ Nguyễn Hoàng.

    Ngoài miếu, tấp nập công nhân đang đào xới, đó là đoàn khảo cổ của tỉnh tìm lại dấu vết tam quan, nền móng tường lũy cũ để phục hồi lại nguyên trạng. Trong nhà, hoành phi câu đối, bát hương, bài vị… được thỉnh từ kinh đô Huế về nằm trang trọng trên bàn thờ. Hai con hạc sơn son thiếp vàng đứng chầu ở gian giữa.

    Thoại đi rảo quanh sân vườn, trước kia là dàn cây cảnh quý thì nay là những cây đa, cây lộc vừng tươi tốt, đang tỏa bóng xanh rờn. Trước mỗi cây ghi người trồng lưu niệm. Thoại ngạc nhiên thấy cây đa của Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, trồng ngày 26/01/2014; cây lộc vừng của bà Nguyễn Thị Doan, Phó Chủ tịch Nước trồng ngày 06/6/2015; cây đa của nguyên Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết, trồng ngày 08/9/2015; cây đa của bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc hội trồng ngày 02/9/2017, rất nhiều cây lưu niệm của quan chức đại diện cho Đảng, Nhà nước.

    Thoại mừng quá bật dậy kêu lên: “Ông tổ ơi”. Một người y tá nói như reo:

    -           Tỉnh rồi!

    Mấy cô y tá mặc áo Blouse trắng cùng chạy lại với anh. Cô gái có khuôn mặt hao hao Thu, nói với Thoại:

    - Anh bị bất tỉnh đã ba ngày rồi. Trong cơn mê, anh cứ nói nhảm về một người tên là Nguyên - cô nhoẻn cười và vội lấp liếm - Em không nhớ tên cô đó…

    Thoại nhỏm ngay dậy, hỏi: “Đây là đâu?”

    - Đây là bệnh viện dã chiến của bộ đội - Cô trả lời và đỡ anh nằm xuống.

    Thoại nhìn quanh, một dãy lán nằm lọt thỏm giữa bốn bức tường bằng đất khá dày dùng để tránh bom đạn Mỹ. Bên trên là rừng cây, xanh um tùm xòe bóng che mát khu lán trại.

    Bỗng có tiếng kẻng báo động dồn dập, tiếng máy bay Mỹ quen thuộc lại nổi lên ầm ầm, tiếng cao xạ pháo nổ ran… Thoại nhớ ra, anh vẫn ở thời đất nước đang chìm trong khói lửa chiến tranh. Trận máy bay Mỹ ném bom xuống cầu Cừ, sức ép đã hất anh văng xuống sông, nhưng lại như có phép mầu, anh vẫn không chết.

    Thoại nở nụ cười vì tin chắc rằng nửa thế kỷ sau quê hương mình sẽ đổi thay như trong giấc mơ anh vừa trải qua.

    Anh mượn tờ giấy và chờ khi các cô y tá bận chăm sóc các chiến sỹ và nhân dân bị thương, anh hý hoáy viết đơn tình nguyện gia nhập quân đội. Trong đơn, Thoại nói rõ đã có quyết định giải oan cho gia đình anh…

    Khi huyện đội nhận được lá đơn của Thoại, nhiều người rơi nước mắt được vì chữ viết bằng máu. Người phụ trách tuyển quân nghẹn ngào bảo: “Lòng yêu nước không của riêng ai!”.

    NT.

    In trong Khai khẩu. Tập truyện ngắn của Nguyễn Trường. NXB Thanh niên, 2019.

    www.trieuxuan.info

    ___

    Những chữ in nghiêng trích trong Đại Nam Thực Lục (tập 1)–  Nxb Giáo Dục, 2002.

    (1) Miếu thờ Triệu Tường thờ những bậc khai quốc công thần, bắt đầu là Thái bảo Hoằng Quốc công Nguyễn Công Duẩn, Thái Úy Trình Quốc công Nguyễn Đức Trung… Triệu tổ Tĩnh hoàng đế Nguyễn Kim Kim rồi đến Nguyễn Hoàng - Đoan Quận Công, phù Lê, diệt Mạc, thời vua Lê Trang Tông, là người có công đầu mở cõi phương Nam.

    (2) Năm Mậu Thìn, (1808) vua Gia Long đặt tên lăng là Trường Nguyên và cho xây dựng phương cơ ở chân núi Thiên Tôn để mỗi lần về Gia Miêu làm nơi bái yết tiên tổ. Năm Tân Tỵ (1821) vua Minh Mệnh cho sửa triệu miếu và dựng bia ở núi Thiên Tôn.

    (3) Trận Thị Nại xảy ra năm Tân Dậu (1801), có thể nói đây là thiên hạ đệ nhất vũ công của Nguyễn Vương.

    Trận đánh diễn ra trong bối cảnh Thái phó Trần Quang Diệu đang vây thành Bình Định, Đại tướng quân Võ Tánh và Tham tri bộ Lễ Ngô Tòng Chu đang cố thủ trong đó đã hơn một năm rồi, bên ngoài Diệu và Dũng cho đóng những đồn hết sức kiên cố. Vì đây là đất của quân Tây Sơn nên họ thông thạo địa hình, biết lợi dụng địa vật và những nơi hiểm yếu để đóng quân. Tây Sơn mạnh về bộ binh vì có nhiều voi chiến, được Trần Quang Diệu, ví như Nguyễn Huệ thứ hai chỉ huy, lại mang những bộ tướng thiện chiến ra đóng các đồn như Vân Sơn, Thị Dã, Chủ Sơn… gần trăm đồn lũy cực kỳ kiên cố với quân số hơn năm vạn quân, có hàng trăm voi chiến, hàng ngàn đại bác lớn nhỏ. Bọc phía Nam Quy Nhơn là Nguyễn Quang Huy, phó đô đốc, cũng là tướng thiện chiến, được mệnh danh là Triệu Tử Long của Tây Sơn. Những đồn lũy trên bộ này liên kết với nhau thành chuỗi phòng ngự khép kín, vô cùng vững chắc.

    Mặt thủy, Tây Sơn cử tướng Vũ Văn Dũng, Đại Tư đồ, kiêm Đô đốc thủy quân, một tướng dũng mãnh, văn võ song toàn, chẳng thế mà Nguyễn Huệ đã nhiều lần cử ông đi sứ sang triều đình nhà Thanh, ứng phó linh hoạt khôn khéo với vua quan nhà Thanh. Một người đứng đầu trong Tây Sơn hổ tướng làm đô đốc thủy quân bày trận ở Thị Nại. Có thể nói đây là đoàn quân quan trọng nhất của nhà Tây Sơn để những khi gió mùa Đông Bắc là kéo quân về phía Nam. Ba lần đánh chiếm Gia Định đều quyết định bởi đạo quân này. Nguyễn Vương tiến ra Quy Nhơn bằng đường thủy. Đại quân gặp đại quân của Vũ Văn Dũng ở Thị Nại. Nguyễn Vương cứ phải lơ lững ngoài bể hơn nửa năm trời mà không làm gì được vì bộ binh và thủy binh không thể liên kết được với nhau.

    (4) Năm Canh Tý (1780), Nguyễn Ánh lên ngôi Vương ở Gia Định, Bá Đa Lộc đến yến kiến xin giúp việc, Vương nhận thấy cần có người dạy hoàng tử Cảnh nên đã nhận lời.

    Tài liệu tham khảo:

    - Đại Nam Liệt truyện –  Nxb Thuận Hóa, 2006.

    - Gia Định Tổng trấn Lê Văn Duyệt - Ngô Tất Tố –  Nxb Khoa học Xã hội, 2016.

    - Vua Gia Long & người Pháp - Thụy Khuê –  Nxb Hồng Đức, 2017.

    - Lịch sử nội chiến Việt Nam… - Tạ Chí Đại Trường –  Nxb Tri thức, 2013.

    - Hội thảo khoa học trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX - Nhiều tác giả – Nxb Thế giới, 2008.

    - Việt Nam Đại chí diễn nghĩa - Trận Thị Nại – Trịnh Phúc Tuấn –  Mạng Internet.

    - Thủy chiến Thị Nại - Trần Huy Thạch –  Mạng Internet.

    - Wikipedia –  Bách khoa toàn thư mở. Bài:  Gia Long.

    - Bí sử triều Nguyễn - Minh Châu và DSC – Nxb Thanh Hóa, 2014.

    Tìm kiếm

    Lượt truy cập

    • Tổng truy cập51,436,570

    Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam

       

      Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.

      *Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...

    Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.

      WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)

      Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.

      The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.

      Enjoy life, enjoy Arita experience!