Tìm kiếm
Lượt truy cập
- Tổng truy cập55,841,765
Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam
Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.
*Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...
Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.
WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)
Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.
The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.
Enjoy life, enjoy Arita experience!
Đọc nhiều nhất
- Phạm Hổ - Thơ viết cho nhi đồng
- Người của giang hồ (5): Lâm Chín ngón
- Thuật quan sát người (4)
- Người của giang hồ (11): Hải bánh
- Người của giang hồ (8): Huỳnh Tỳ
- Thuật quan sát người (2)
- Vài nét về tục Cúng Mụ, đầy tháng, thôi nôi
- Vài tư liệu về Tục thờ Thánh Mẫu
- Chùm thơ về Tây Nguyên
- Chuyện Sọ Dừa
Thơ
41
I am he bringing help for the sick as they pant on their backs,
And for strong upright men I bring yet more needed help.
I heard what was said of the universe,
Heard it and heard it of several thousand years;
It is middling well as far as it goes—but is that all?
Magnifying and applying come I,
Outbidding at the start the old cautious hucksters,
Taking myself the exact dimensions of Jehovah,
Lithographing Kronos, Zeus his son, and Hercules his grandson,
Buying drafts of Osiris, Isis, Belus, Brahma, Buddha,
In my portfolio placing Manito loose, Allah on a leaf, the crucifix engraved,
With Odin and the hideous-faced Mexitli and every idol and image,
Taking them all for what they are worth and not a cent more,
Admitting they were alive and did the work of their days,
(They bore mites as for unfledg'd birds who have now to rise and fly and sing for themselves,)
Accepting the rough deific sketches to fill out better in myself, bestowing them freely on each man and woman I see,
Discovering as much or more in a framer framing a house,
Putting higher claims for him there with his roll'd-up sleeves driving the mallet and chisel,
Not objecting to special revelations, considering a curl of smoke
or a hair on the back of my hand just as curious as any revelation,
Lads ahold of fire-engines and hook-and-ladder ropes no less to me than the gods of the antique wars,
Minding their voices peal through the crash of destruction,
Their brawny limbs passing safe over charr'd laths, their white foreheads whole and unhurt out of the flames;
By the mechanic's wife with her babe at her nipple interceding for every person born,
Three scythes at harvest whizzing in a row from three lusty angels with shirts bagg'd out at their waists,
The snag-tooth'd hostler with red hair redeeming sins past and to come,
Selling all he possesses, traveling on foot to fee lawyers for his brother and sit by him while he is tried for forgery;
What was strewn in the amplest strewing the square rod about me, and not filling the square rod then,
The bull and the bug never worshipp'd half enough,
Dung and dirt more admirable than was dream'd,
The supernatural of no account, myself waiting my time to be one of the supremes,
The day getting ready for me when I shall do as much good as the best, and be as prodigious;
By my life-lumps! becoming already a creator,
Putting myself here and now to the ambush'd womb of the shadows.
41
Tôi là người đem trợ giúp đến cho kẻ ốm đau khi họ nằm hổn hển,
Và cho người khỏe khoắn đứng thẳng lưng tôi còn đem thêm sự trợ giúp họ cần.
Tôi đã nghe những điều người ta nói về vũ trụ,
Nghe và nghe về ngàn vạn năm trường;
Chừng ấy cũng tạm được rồi nhưng phải chăng tất cả chỉ là như vậy?
Tôi đến đây để khuyếch đại và áp dụng vào thực tế,
Ngay từ đầu tôi trả giá cao hơn những lão già vụ lợi chi ly,
Tự mình mang chiều kích Thần Jehovah,
Sao in Thần Kronos, con trai Ngài là Thần Zeus, cháu nội Ngài là thần Hercules,
Mua các phác thảo của Thần Osiris, Thần Isis, Thần Belus, Brahma, và Bụt,
Trong cặp hồ sơ tôi đặt Manito vào một tờ rời, Allah trên một tờ giấy, hình Jesus trên cây thập giá khắc chìm,
Với Odin và Mexitli xú-diện và mọi thần tượng cùng hình tượng ,
Tôi chấp nhận tất cả theo đúng giá trị các Ngài chứ không thêm thắt một xu,
Thừa nhận rằng họ đã sống thật và đã làm công việc của thời đại họ,
(Họ mang những con bọ trên mình như những con chim chưa đủ lông đủ cánh giờ đây phải lớn lên bay và hót cho bản thân mình,)
Chấp nhận những phác đồ thần thánh sơ khai để đưa vào chính mình với chất lượng cao hơn, rồi biếu không cho mỗi người đàn ông đàn bà mình gặp,
Khám phá nhiều bằng thế hoặc hơn thế trong một người thợ mộc dựng nhà,
Đánh giá anh cao hơn lúc anh săn tay áo điều khiển cây vồ và chiếc đục,
Không phản đối những mặc khải nào đặc biệt, coi một lọn khói hay một sợi lông trên mu bàn tay cũng đáng tò mò như bất cứ mặc khải nào.
Những chàng trai trên xe chữa cháy nắm chiếc thang dây móc tôi thấy chẳng thua các vị thần chiến tranh cổ đại,
Tôi lắng nghe tiếng họ vang lên qua tiếng nhà cửa đổ xầm,
Chân tay họ thò qua những thanh gỗ cháy thành than, những cái trán trắng bệch của họ vẹn toàn nhô qua ngọn lửa;
Bên người vợ của anh thợ máy với đứa con trên đầu vú cầu xin cho mỗi đứa trẻ ra đời,
Ba lưỡi hái mùa gặt rít lên một lượt trong tay những thiên thần vui vẻ mặc áo phồng ở chỗ thắt lưng,
Người coi chuồng ngựa sứt răng tóc đỏ cứu chuộc những tội lỗi đã qua và sẽ tới,
Bán đi tất cả của cải, đi bộ khắp nơi thuê luật sư cho anh mình và ngồi bên anh khi anh bị ra tòa vì tội danh làm bạc giả;
Những gì rải trên địa bàn rộng nhất cũng rải trên sào đất quanh tôi và chẳng rải đầy sào đất ấy,
Con bò mộng và con bọ nhỏ không bao giờ được thờ phụng đủ tầm,
Phân bò và bùn đất đáng ngưỡng mộ hơn là trong mơ tưởng,
Cái siêu phàm chẳng đáng gì, chính ta đang đợi thời của ta để làm một bậc siêu phàm,
Ta sắp sẵn sàng cho ngày mình làm ra kỳ tích ngang những vị cao siêu nhất và phi thường không thua họ,
Thề trên những mấu sọ của ta! ta đang trở thành một bậc sáng tạo đây rồi,
Bây giờ và ở đây ta đặt mình vào tử cung đợi chờ của bóng tối.
Bình chú: Trong đoạn này, Whitman nói lên cái nhìn tổng thể nhất của ông về các tôn giáo trên thế giới. Ông bao quát tất cả các tôn giáo ngay cả khi không chịu coi từng tôn giáo như lời đáp dứt khoát và cuối cùng cho yêu cầu tâm linh của nhân loại. Ông chỉ ra rằng mỗi tôn giáo ấy đều không phát lộ được sức mạnh và sự bí nhiệm của đời sống đang diễn ra trước mắt chúng ta mỗi lúc mỗi ngày. Nhà thơ tuyên bố sẽ “trả giá cao hơn những lão già vụ lợi chi ly” (tức các tôn giáo già cỗi). Ông khẳng định chỉ có một thân xác đang sống mới sinh sản ra tương lai, mới là bảo đảm thực cho sự sống tiếp tục sau cái chết, mới là lời hứa của “vĩnh hằng”. Tất cả chúng ta có thể khám phá ra cái thần thánh và nhận ra nó trong chính bản thân mình và trong mỗi người ta gặp. Cái tôi đang sống, sáng tạo, lao động được nhận ra là vị Thượng đế mới trong xã hội dân chủ, và Whitman chuyển qua một bản catalog xúc tích về các ngành lao động ở mọi nơi chốn thông thường. Và ông coi những cái nhỏ nhoi thấp hèn nhất trong cuộc sống cũng ngang hàng với cái siêu phàm, bản thân ông cũng như mỗi người đều là người sáng tạo ra tương lai.
42
A call in the midst of the crowd,
My own voice, orotund sweeping and final.
Come my children,
Come my boys and girls, my women, household and intimates,
Now the performer launches his nerve, he has pass’d his prelude on the reeds within.
Easily written loose-finger’d chords—I feel the thrum of your climax and close.
My head slues round on my neck,
Music rolls, but not from the organ,
Folks are around me, but they are no household of mine.
Ever the hard unsunk ground,
Ever the eaters and drinkers, ever the upward and downward sun, ever the air and the ceaseless tides,
Ever myself and my neighbors, refreshing, wicked, real,
Ever the old inexplicable query, ever that thorn’d thumb, that breath of itches and thirsts,
Ever the vexer’s hoot! hoot! till we find where the sly one hides and bring him forth,
Ever love, ever the sobbing liquid of life,
Ever the bandage under the chin, ever the trestles of death.
Here and there with dimes on the eyes walking,
To feed the greed of the belly the brains liberally spooning,
Tickets buying, taking, selling, but in to the feast never once going,
Many sweating, ploughing, thrashing, and then the chaff for payment receiving,
A few idly owning, and they the wheat continually claiming.
This is the city and I am one of the citizens,
Whatever interests the rest interests me, politics, wars, markets, newspapers, schools,
The mayor and councils, banks, tariffs, steamships, factories, stocks, stores, real estate and personal estate.
The little plentiful manikins skipping around in collars and tail’d coats,
I am aware who they are, (they are positively not worms or fleas,)
I acknowledge the duplicates of myself, the weakest and shallowest is deathless with me,
What I do and say the same waits for them,
Every thought that flounders in me the same flounders in them.
I know perfectly well my own egotism,
Know my omnivorous lines and must not write any less,
And would fetch you whoever you are flush with myself.
Not words of routine this song of mine,
But abruptly to question, to leap beyond yet nearer bring;
This printed and bound book—but the printer and the printing-office boy?
The well-taken photographs—but your wife or friend close and solid in your arms?
The black ship mail’d with iron, her mighty guns in her turrets—but the pluck of the captain and engineers?
In the houses the dishes and fare and furniture—but the host and hostess, and the look out of their eyes?
The sky up there—yet here or next door, or across the way?
The saints and sages in history—but you yourself?
Sermons, creeds, theology—but the fathomless human brain,
And what is reason? and what is love? and what is life?
42
Một tiếng gọi từ giữa đám đông,
Tiếng của riêng tôi, sang sảng vang xa và dứt khoát.
Hãy tới đây các con,
Tới đây các con trai con gái, những người đàn bà của ta, người nội trợ và bạn tình,
Giờ đây người trình diễn phô bày gân sức, phần dạo đầu trong bóng tối đã xong.
Những hợp âm được viết ra dễ dàng từ ngón tay thả lỏng – ta cảm nhận được ngươi đã lên tột đỉnh và kết thúc là đây.
Đầu tôi xoay tròn trên cổ,
Âm nhạc vang rền, nhưng không phải từ cây đàn organ,
Nhiều người vây quanh tôi, nhưng không phải người nhà thân thiết.
Vĩnh hằng đất cứng không chìm,
Vĩnh hằng những người ăn uống, vĩnh hằng mặt trời mọc và lặn, vĩnh hằng khí trời và sóng triều không ngưng nghỉ,
Vĩnh hằng chính tôi và hàng xóm láng giềng, khoan khoái, xấu xa, thực tế,
Vĩnh hằng điều thắc mắc cổ xưa không thể nào giải thích, vĩnh hằng ngón tay cái gai góc ấy, hơi thở ngứa ngáy và khát thèm,
Vĩnh hằng kẻ gây sự to mồm huýt! huýt! cho đến khi ta tìm được nơi hắn nấp và lôi cổ ra ngoài,
Vĩnh hằng tình yêu, vĩnh hằng chất lỏng luôn luôn thổn thức của sự sống,
Vĩnh hằng giải băng buộc dưới cằm, vĩnh hằng chiếc ghế ba chân của cái chết.
Đây đó bước đi những kẻ có đồng xu trong mắt,
Tùy tiện múc óc ra nuôi cái bụng tham lam,
Mua vé, lấy vé, bán vé, nhưng không một lần đi vào bữa tiệc,
Nhiều người đổ mồ hôi, cầy cấy, gặt đập, rồi nhận trả công bằng rơm rác,
Một số ít nhàn cư có của, và liên miên đòi thóc lúa cho mình.
Đây là đô thị và tôi là một trong các thị dân,
Bất cứ gì dính dáng đến mọi người đều dính dáng đến tôi, chính trị, chiến tranh, thị trường, báo hàng ngày, trường học,
Thị trưởng và hội đồng thành phố, nhà băng, tỷ giá, tàu hơi nước, xí nghiệp, chứng khoán, cửa hàng bách hóa, bất động sản và động sản.
Đông đảo những gã lùn nhảy lò cò quanh quẩn áo cổ cồn và áo đuôi tôm,
Tôi biết họ là ai (rõ ràng họ không phải là đồ sâu bọ),
Tôi nhận ra những bản sao của chính mình, kẻ yếu nhất và nông cạn nhất cũng bất tử với tôi,
Điều tôi làm tôi nói cũng là điều chờ đợi họ,
Mỗi ý nghĩ chờn vờn trong óc tôi cũng chờn vờn trong óc họ.
Tôi hoàn toàn biết rõ mình có óc độc tôn,
Biết những dòng viết tham lam của mình nhưng không thể viết ít hơn,
Và tôi sẽ làm anh xúc động bất kể là ai anh cũng bằng vai phải lứa.
Bài hát của tôi không có những lời mòn chán,
Mà đột ngột đặt ra câu hỏi, nhảy vọt qua nhưng lại kéo về gần;
Cuốn sách này được in ra và đóng gáy – nhưng còn người thợ in và chú bé phụ in?
Những bức ảnh chụp đẹp ghê – nhưng còn vợ anh hay bạn anh thân thiết bằng thịt bằng xương trong vòng tay anh nữa?
Con tàu đen bọc sắt, những khẩu súng dũng mãnh trên tháp pháo kia – nhưng còn sự can trường của thuyền trưởng và thợ máy?
Những đồ ăn thức uống và đồ đạc trong nhà – nhưng còn nam nữ chủ nhân, và đôi mắt họ trông chừng?
Bầu trời trên kia – nhưng còn đây bên hàng xóm, hay bên kia đường cái?
Những vị thánh hiền trong sử sách – nhưng còn anh, chính bản thân anh?
Những lời rao giảng, những tín điều, thần học – nhưng còn bộ óc con người thăm thẳm,
Và lý trí là gì? Và tình yêu? Và đời sống là gì?
Bình chú: Whitman luôn luôn quan tâm đến vấn đề hằng hữu của nền dân chủ: quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa một và nhiều, vì vậy ông hình dung tiếng nói của mình cất lên bên trên dàn đồng ca nhưng hài hòa với nó, nói với và nói cho “đám đông”. Ông tạo nên, với điệp từ “vĩnh hằng”, một cảm thức về sự tái diễn và thay đổi mà ông quan sát thấy và ca tụng xuyên suốt bài thơ: “Đầu tôi xoay tròn trên cổ”, nói lên phối cảnh luôn thay đổi và cái nhìn vòng quanh rộng khắp của bài thơ.
Trong cái đời sống đa dạng ấy, ta thấy nhà thơ phản đối mạnh mẽ nhất việc phân phối bất bình đẳng của cải xã hội và cho ta bức tranh về đô thị của những xác chết đang đi với đồng xu bịt mắt (theo tục lệ cổ, những đồng xu được đặt trên mắt người chết để cho họ nhắm được mắt). Ám ảnh đồng tiền tạo nên cái chết-trong-khi-đang-sống, tạo nên một thiểu số “múc” não của chính mình để nuôi lòng tham, đòi hỏi nhiều hơn những gì mình thực sự cần.
Whitman kết thức đoạn thơ này với một catalog các hình thức bên ngoài – sách, ảnh, tàu thuyền, nhà cửa – và nhắc ta nhớ rằng tất cả chỉ là hình thức bên ngoài, trong khi những con người sống mới là kẻ sản sinh tất cả. Chúng ta nhìn lên và nhìn đi đâu – lên trời, về quá khứ (“các vị thánh hiền trong sử sách”), tới cái trừu tượng (“những lời rao giảng, những tín điều, thần học”) – trong khi lẽ ra ta phải nhìn xuống và nhìn vào đời sống thực đang diễn ra.
43
I do not despise you priests, all time, the world over,
My faith is the greatest of faiths and the least of faiths,
Enclosing worship ancient and modern and all between ancient and modern,
Believing I shall come again upon the earth after five thousand years,
Waiting responses from oracles, honoring the gods, saluting the sun,
Making a fetich of the first rock or stump, powowing with sticks in the circle of obis,
Helping the llama or brahmin as he trims the lamps of the idols,
Dancing yet through the streets in a phallic procession, rapt and austere in the woods a gymnosophist,
Drinking mead from the skull-cup, to Shastas and Vedas admirant, minding the Koran,
Walking the teokallis, spotted with gore from the stone and knife, beating the serpent-skin drum,
Accepting the Gospels, accepting him that was crucified, knowing assuredly that he is divine,
To the mass kneeling or the puritan’s prayer rising, or sitting patiently in a pew,
Ranting and frothing in my insane crisis, or waiting dead-like till my spirit arouses me,
Looking forth on pavement and land, or outside of pavement and land,
Belonging to the winders of the circuit of circuits.
One of that centripetal and centrifugal gang I turn and talk like a man leaving charges before a journey.
Down-hearted doubters dull and excluded,
Frivolous, sullen, moping, angry, affected, dishearten’d, atheistical,
I know every one of you, I know the sea of torment, doubt, despair and unbelief.
How the flukes splash!
How they contort rapid as lightning, with spasms and spouts of blood!
Be at peace bloody flukes of doubters and sullen mopers,
I take my place among you as much as among any,
The past is the push of you, me, all, precisely the same,
And what is yet untried and afterward is for you, me, all, precisely the same.
I do not know what is untried and afterward,
But I know it will in its turn prove sufficient, and cannot fail.
Each who passes is consider’d, each who stops is consider’d, not a single one can it fail.
It cannot fail the young man who died and was buried,
Nor the young woman who died and was put by his side,
Nor the little child that peep’d in at the door, and then drew back and was never seen again,
Nor the old man who has lived without purpose, and feels it with bitterness worse than gall,
Nor him in the poor house tubercled by rum and the bad disorder,
Nor the numberless slaughter’d and wreck’d, nor the brutish koboo call’d the ordure of humanity,
Nor the sacs merely floating with open mouths for food to slip in,
Nor any thing in the earth, or down in the oldest graves of the earth,
Nor any thing in the myriads of spheres, nor the myriads of myriads that inhabit them,
Nor the present, nor the least wisp that is known.
43
Tôi không khinh thị các ngài, hỡi các thầy tu mọi thời và khắp nơi trên trái đất,
Niềm tin tôi là niềm tin lớn nhất và cũng là bé nhỏ nhất đời,
Đi kèm sự thờ phụng cổ xưa và hiện đại và mọi sự thờ phụng giữa cổ xưa và hiện đại,
Tôi tin năm nghìn năm sau mình sẽ trở lại trái đất này,
Chờ câu đáp từ các lời tiên tri, tôn vinh chư thần thánh, chào đón mặt trời,
Coi tảng đá hay gốc cây đầu tiên là thần, làm phép lạ với những cây gậy trong vòng tròn ma thuật,
Giúp vị lạt-ma hay bà-la-môn lúc họ tô điểm những cây đèn thần tượng,
Lại nhảy múa qua các con đường trong đám rước thần dương vật, cực lạc và khổ hạnh trong rừng sâu như một yoga-sĩ trần truồng,
Uống rượu mật ong trong chiếc sọ người, hâm mộ kinh Shasta và Veda, coi kinh Koran làm trọng,
Bước đi trên tháp xưa Aztech, vấy máu vì đá và dao đâm, đánh chiếc trống bịt da rắn,
Chấp nhận Phúc âm, chấp nhận người đã bị đóng đinh câu rút, biết chắc rằng người là thần thánh không sai,
Quỳ gối trong lễ Misa hay dậy sớm đọc kinh thanh giáo, hay ngồi kiên nhẫn trên chiếc ghế dành riêng trong nhà thờ,
Sùi bọt mép huyênh hoang trong cơn mất trí, hay như cái xác không hồn đợi đến khi thần trí nâng mình lên,
Dướn mắt kiếm tìm trên hè phố hay vùng đất quanh mình, hay bên ngoài hè phố và bên ngoài đất ấy,
Tôi là một trong những thầy giảng đạo tuần du bao quát mọi cuộc tuần du,
Là một trong lũ người hướng tâm hay ly tâm tôi quay lại nói năng như thể trước chuyến đi xa trút gánh.
Hỡi những kẻ hoài nghi nản chí ngu đần và bị loại ra ngoài cuộc,
Phù phiếm, âu sầu, nhăn nhó, giận dữ, giả vờ, nhụt chí, vô thần,
Tôi biết từng người trong bọn các anh, tôi biết cả một biển dày vò, hoài nghi, thất vọng và không tin tưởng.
Những cái đuôi cá voi đập nước dữ làm sao!
Chúng vặn vẹo nhanh như chớp, máu phun tung tóe!
Hãy ở yên những cái đuôi đẫm máu của kẻ hoài nghi và âu sầu nhăn nhó,
Tôi đặt mình vào giữa các anh cũng như giữa bất kỳ đám người nào,
Quá khứ là sự xô đẩy của các anh, của tôi, của mọi người, giống nhau y hệt,
Và điều chưa được thử và điều gì sau đó là cho anh, cho tôi, cho mọi người y hệt như nhau.
Tôi không biết điều gì chưa được thử và sau đó là gì,
Nhưng tôi biết rằng khi đến lượt nó sẽ chứng tỏ là đủ đầy và không thể thiếu.
Mỗi người vượt qua được tính đến, mỗi người dừng lại được tính đến, không thiếu một ai.
Không thiếu chàng trai trẻ đã chết và được chôn cất,
Cũng không thiếu cô gái đã chết và được đặt bên anh,
Cũng không thiếu đứa bé dòm trộm ngoài cửa rồi rút lui và không bao giờ được thấy lại,
Cũng không thiếu ông già đã sống vô mục đích và cảm nhận điều đó đắng cay sao,
Cũng không thiếu người trong ngôi nhà nghèo khổ mắc bệnh lao do rượu mạnh và vô trật tự,
Cũng không thiếu vô số người bị tàn sát và đánh đắm, hay thổ dân man rợ bị kêu là rác rưởi của loài người,
Cũng không thiếu những cái túi chỉ biết dật dờ há miệng chờ thức ăn trôi vào cuống họng,
Cũng không thiếu bất cứ gì trên trái đất, hay trong những mồ sâu xưa nhất dưới đất dày,
Cũng không thiếu bất cứ gì trên hằng hà sa số tinh cầu,
Không thiếu cái bây giờ, không thiếu thứ nhỏ nhoi nhất mà ta biết đến.
Bình chú: Whitman trở lại những mối quan tâm đã cất lên trong Đoạn 41, về tất cả các kiểu dạng tôn giáo. Ở đây ông liệt kê chi tiết những nghi lễ tín ngưỡng trong hằng ngàn năm, từ những người thờ lạy mặt trời xưa nhất tới các mục sư du hành của thời ông (được gọi là “circuit rider” vì họ đi tuần du một vòng qua các giáo đoàn khác nhau) – còn nhà thơ thì tuần du qua mọi tôn giáo, từ châu Á qua Hy Lạp đến Hoa Kỳ, từ cổ chí kim. Ông đặt ra câu hỏi: Điều gì sẽ xảy ra nếu có một bản sắc cá nhân chấp nhận tất cả các tôn giáo ấy, kể cả người vô thần hoài nghi không tín ngưỡng? Làm sao có thể vừa bao quát vừa chấp nhận những niềm tin và sự hoài nghi xung đột nhau của mọi người trên trái đất? Câu trả lời của Whitman vừa giản dị vừa cao cả. Dù cho ta có kính tín thế nào đi nữa, tất cả chúng ta đều đối mặt với “dày vò, hoài nghi, thất vọng và không tin tưởng”. Giống như “flukes” – cái đuôi của con cá voi dùng để tiêu diệt địch thủ nhưng cũng là cái móc lao người ta dùng để giết cá voi – “những cái đuôi đẫm máu của kẻ hoài nghi và âu sầu nhăn nhó” có thể quay lại giết chết ta.
Vậy nên Whitman đem cho ta một niềm tin vượt qua mọi nghi ngờ, niềm tin vào tính vật chất của thời điểm hiện tại mà ta đang sống.
44
It is time to explain myself—let us stand up.
What is known I strip away,
I launch all men and women forward with me into the Unknown.
The clock indicates the moment—but what does eternity indicate?
We have thus far exhausted trillions of winters and summers,
There are trillions ahead, and trillions ahead of them.
Births have brought us richness and variety,
And other births will bring us richness and variety.
I do not call one greater and one smaller,
That which fills its period and place is equal to any.
Were mankind murderous or jealous upon you, my brother, my sister?
I am sorry for you, they are not murderous or jealous upon me,
All has been gentle with me, I keep no account with lamentation,
(What have I to do with lamentation?)
I am an acme of things accomplish’d, and I an encloser of things to be.
My feet strike an apex of the apices of the stairs,
On every step bunches of ages, and larger bunches between the steps,
All below duly travel’d, and still I mount and mount.
Rise after rise bow the phantoms behind me,
Afar down I see the huge first Nothing, I know I was even there,
I waited unseen and always, and slept through the lethargic mist,
And took my time, and took no hurt from the fetid carbon.
Long I was hugg’d close—long and long.
Immense have been the preparations for me,
Faithful and friendly the arms that have help’d me.
Cycles ferried my cradle, rowing and rowing like cheerful boatmen,
For room to me stars kept aside in their own rings,
They sent influences to look after what was to hold me.
Before I was born out of my mother generations guided me,
My embryo has never been torpid, nothing could overlay it.
For it the nebula cohered to an orb,
The long slow strata piled to rest it on,
Vast vegetables gave it sustenance,
Monstrous sauroids transported it in their mouths and deposited it with care.
All forces have been steadily employ’d to complete and delight me,
Now on this spot I stand with my robust soul.
44
Đã đến lúc tôi giải thích chính mình – nào chúng ta hãy cùng đứng dậy.
Tôi cởi bỏ những gì đã biết,
Tôi tung mọi đàn ông đàn bà về phía trước lao vào cái Chưa biết cùng tôi.
Đồng hồ chỉ giây phút này – nhưng vĩnh cửu chỉ cái gì đây nhỉ?
Chúng ta đã khai thác kiệt cùng hàng tỷ tỷ mùa đông mùa hạ,
Còn tỷ ty mùa phía trước, và tỷ ty mùa khác ở phía trước nữa kìa.
Chúng ta sinh ra phong phú và đa dạng,
Và những lần hóa sinh khác nữa sẽ cho ta phong phú và đa dạng không ngừng.
Tôi không nói cái này lớn hơn cái nọ nhỏ hơn,
Cái gì đáp ứng đúng chỗ đúng thời thì sánh ngang nhau tất cả.
Loài người có khắc nghiệt hay tỵ hiềm với anh, với chị?
Thật tiếc cho anh chị, nhưng họ không tỵ hiềm hay khắc nghiệt với tôi,
Mọi người đều tử tế với tôi, tôi không có gì than thở,
(Tôi chẳng liên quan gì đến chuyện thở than).
Tôi là tột đỉnh của những việc đã hoàn thành, và tôi là người chứa đựng những điều sắp đến.
Hai chân tôi dẫm lên đỉnh của những đỉnh cầu thang,
Mỗi bậc thang là bao nhiêu thời đại, và còn nhiều thời đại hơn ở lưng chừng các bậc,
Tất cả tôi đã vượt qua thích đáng, và tôi vẫn trèo vẫn tiếp tục trèo.
Những bóng ma cúi đầu sau mỗi bước tôi lên,
Nhìn thấy đằng xa dưới đó cái Hư Không rộng lớn đầu tiên, thậm chí tôi biết mình đã ở đấy,
Tôi miệt mài chờ đợi, không ai hay biết, và ngủ qua hết màn sương dày đặc hôn mê,
Và tôi cứ nhẩn nha, không hề hấn gì vì khí than hôi hám.
Tôi đã được ôm ghì rất lâu – từ rất rất lâu.
Những sự sửa soạn cho tôi ra đời không sao kể siết,
Tin cậy và thân tình những cánh tay đã trợ giúp tôi.
Những chu trình đưa đẩy chiếc nôi tôi, chèo và chèo như người lái đò vui vẻ,
Giành chỗ cho tôi những vì sao tránh ra ngoài quỹ đạo của chính mình,
Chúng dùng ảnh hưởng của mình để chăm nom cái chứa đựng tôi.
Trước lúc mẹ sinh ra tôi đã có nhiều thế hệ thay nhau dẫn dắt,
Bào thai tôi không bao giờ ngủ lịm, không gì có thể phủ lên.
Vì bào thai tôi mà đám tinh vân kết thành thiên thể,
Những địa tầng từ lâu chầm chậm xếp cao dần đỡ nó nghỉ bên trên,
Những cây cỏ khổng lồ cho thức ăn nuôi sống,
Những con bò sát quái lạ tha nó đi trong miệng và cẩn thận đặt nó dưới chân.
Mọi lực lượng đã được sử dụng không ngừng để hoàn thiện tôi và làm tôi vui sướng,
Bây giờ tôi đứng đây với tâm hồn tráng kiện của mình.
Bình chú: Ở Đoạn thơ 23, Whitman đã ca tụng những thành tựu khoa học của thời mình: “Hoan hô khoa học thực chứng!”, ông tuyên bố “Duy vật luận là niềm tin trước hết và sau cùng”. Những hàm ý của các tuyên bố trên được thấy rõ hơn trong các đoạn sau đó. Tại đoạn thơ 44 này, một ca khúc chủ chốt của bài thơ, nhà thơ lại giải thích tất cả một cách chi tiết hơn nữa.
Các sinh vật hữu thức bao giờ cũng chỉ biết cái thời điểm hiện tại, nhưng nếu ta “cởi bỏ những gì đã biết”, ta có thể có được một chỉ dẫn của “vĩnh hằng”, một cái thoáng nhìn đối với những hành trình rộng lớn và vô cùng mà những vật chất tạo nên ta đã đi qua và những hành trình rộng lớn và vô cùng mà chúng sẽ còn phải đi tới. Ở đây Whitman bao quát những tiến bộ của địa chất học, thiên văn học, hóa học, tiến hóa học và các khoa học khác nhằm vẽ nên những lượng thời gian và không gian mênh mông ngoài sức tưởng tượng mà các quan niệm mới về vũ trụ đòi hỏi và phát lộ. Những thuật từ khoa học, toán học như “trillion” (nghìn tỷ), xâm nhập vào thơ, cũng như “khủng long” lần đầu xuất hiện trong thơ là ở đây (loài vật này mới được phát hiện từ 10 năm trước khi Whitman viết bài thơ này). Ông nhận ra ông (cũng như tất cả chúng ta) chính là hiện hữu mà thời gian nghìn nghìn tỷ năm đã dưa đến, từ “đằng xa dưới đó cái Hư Không rộng lớn đầu tiên” mà có thể ngày nay ta gọi là “Big Bang”
Nhà thơ đã trèo các bậc thang tiến hóa, biết rằng mỗi bậc đều quan trọng như nhau, và bây giờ, vào lúc này đây, ông hiện thân quá khứ cũng như tương lai. Nhưng quan trọng nhất là ông hiện thân “tâm hồn tráng kiện” của mình bây giờ và ở đây – sức sống mãnh liệt, sự hiện tồn đang rung động.
45
O span of youth! ever-push’d elasticity!
O manhood, balanced, florid and full.
My lovers suffocate me,
Crowding my lips, thick in the pores of my skin,
Jostling me through streets and public halls, coming naked to me at night,
Crying by day Ahoy! from the rocks of the river, swinging and chirping over my head,
Calling my name from flower-beds, vines, tangled underbrush,
Lighting on every moment of my life,
Bussing my body with soft balsamic busses,
Noiselessly passing handfuls out of their hearts and giving them to be mine.
Old age superbly rising! O welcome, ineffable grace of dying days!
Every condition promulges not only itself, it promulges what grows after and out of itself,
And the dark hush promulges as much as any.
I open my scuttle at night and see the far-sprinkled systems,
And all I see multiplied as high as I can cipher edge but the rim of the farther systems.
Wider and wider they spread, expanding, always expanding,
Outward and outward and forever outward.
My sun has his sun and round him obediently wheels,
He joins with his partners a group of superior circuit,
And greater sets follow, making specks of the greatest inside them.
There is no stoppage and never can be stoppage,
If I, you, and the worlds, and all beneath or upon their surfaces, were this moment reduced back to a pallid float, it would not avail in the long run,
We should surely bring up again where we now stand,
And surely go as much farther, and then farther and farther.
A few quadrillions of eras, a few octillions of cubic leagues, do not hazard the span or make it impatient,
They are but parts, any thing is but a part.
See ever so far, there is limitless space outside of that,
Count ever so much, there is limitless time around that.
My rendezvous is appointed, it is certain,
The Lord will be there and wait till I come on perfect terms,
The great Camerado, the lover true for whom I pine will be there.
45
Hỡi tuổi thanh niên! Sức co giãn luôn luôn đẩy tới!
Hỡi tuổi tráng niên, cân bằng, hồng hào, sức lực tràn trề.
Những người yêu tôi làm tôi nghẹn họng,
Nghiến ngấu môi tôi, bịt kín các lỗ chân lông,
Xô tôi qua phố phường và công sảnh, trần truồng đến với tôi khi đêm xuống,
Giữa ban ngày la Bớ anh! từ các tảng đá trên sông, nhún nhảy và thủ thỉ trên đầu tôi,
Gọi tên tôi từ các luống hoa, cây leo, bụi thấp,
Thắp sáng từng khoảnh khắc đời tôi,
Hôn chùn chụt người tôi những cái hôn thơm phức,
Lặng lẽ trao từng nắm yêu thương từ trái tim cho tôi làm của riêng mình.
Hỡi tuổi già đang đến tuyệt vời sao! Chào mừng ngươi, hỡi ân sủng khôn nói nên lời của những ngày ta đi vào cõi chết!
Mỗi hoàn cảnh thể hiện không chỉ bản thân nó, nó thể hiện cái lớn lên sau nó và sinh ra từ chính nó,
Và sự im lặng tối tăm cũng thể hiện nhiều như bất cứ hoàn cảnh nào.
Đêm đêm tôi mở cửa sổ và nhìn thấy những hệ thống rải rắc xa vời,
Và tất cả những gì tôi thấy nhân lên gấp bội theo hết khả năng tính toán của mình nhưng cũng chỉ chạm đến mép bờ những hệ thống xa hơn nữa.
Chúng trải ra rộng hơn rộng hơn, bành trướng, luôn luôn bành trướng,
Hướng ra xa, hướng ra xa và vĩnh viễn hướng ra xa.
Mặt trời của tôi lại có mặt trời của nó và ngoan ngoãn quay quanh,
Với các đối tác họp thành một nhóm vòng tròn lớn nữa,
Và những tập họp lớn hơn đi theo, tập hợp lớn nhất trong lòng nó chỉ là hạt bụi.
Không hề ngưng, không bao giờ ngưng nghỉ,
Nếu tôi, anh và các thế giới, và mọi thứ bên dưới hay bên trên bề mặt của chúng, lúc này chỉ còn là một đám lềnh bềnh nhợt nhạt, về dài lâu chẳng giá trị gì,
Chúng ta sẽ lại đứng ở nơi ta đang đứng,
Và chắc chắn đi xa hơn nhiều, rồi xa nữa, xa hơn.
Vài tỷ tỷ kỷ nguyên hay dặm khối cũng không thách thức được quãng sinh tồn hay làm giảm sự kiên trì của nó,
Chúng chỉ là một phần, chẳng là gì hơn một phần của quãng sinh tồn.
Nhìn xa đến đâu cũng thấy không gian vô hạn bên ngoài,
Tính nhiều đến đâu cũng thấy thời gian xung quanh vô hạn.
Cuộc hẹn của tôi đã định rồi, chắc chắn là như thế,
Thượng đế sẽ ở đó đợi tới khi tôi đến trong hoàn hảo hạn kỳ,
Sẽ ở đó người Đồng chí lớn, người yêu đích thực mà tôi mong mỏi khát khao.
Bình chú: Nghĩ đến hành trình của cuộc đời, từ tuổi trẻ đến “những ngày ta đi vào cõi chết”, nhà thơ nhận ra sự biến đổi không ngừng của thời gian, và sự biến đổi xảy ra do việc ta không ngừng tương tác với thế giới xung quanh. “Những người yêu tôi làm tôi nghẹn họng”, từ con rận ở lỗ chân lông đến những người xa lạ “xô tôi trên đường phố”… “Song of Myself” là bài thơ về sự nghẹn thở cao siêu, ở đó mọi sự vật xung quanh nhà thơ đều được nuốt vào (“Tất cả tôi nuốt vào, vị thật ngon, tôi rất thích” – Đoạn 33) để rồi thoát ra khỏi họng thành tiếng nói.
Whitman kết thúc đoạn thơ bằng việc khơi gợi trở lại cái vũ trụ mênh mông không có điểm dừng, và ở đó Thượng đế là “người Đồng chí lớn” mà ông hẹn gặp.
(còn tiếp)
Nguồn: Lá cỏ - Bài hát chính tôi {SONG OF MYSELF}. Tác giả Walt Whitman. Hoàng Hưng dịch từ nguyên tác: Leaves of Grass (final "Death-Bed" edition, 1891-2) (David McKay, 1892). NXB Hội Nhà văn, 2015.
Cám ơn Nhà thơ, Dịch giả gửi www.trieuxuan.info
Tìm kiếm
Lượt truy cập
- Tổng truy cập55,841,765
Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam
Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.
*Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...
Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.
WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)
Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.
The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.
Enjoy life, enjoy Arita experience!
Đọc nhiều nhất
- Phạm Hổ - Thơ viết cho nhi đồng
- Người của giang hồ (5): Lâm Chín ngón
- Thuật quan sát người (4)
- Người của giang hồ (11): Hải bánh
- Người của giang hồ (8): Huỳnh Tỳ
- Thuật quan sát người (2)
- Vài nét về tục Cúng Mụ, đầy tháng, thôi nôi
- Vài tư liệu về Tục thờ Thánh Mẫu
- Chùm thơ về Tây Nguyên
- Chuyện Sọ Dừa