Tìm kiếm
Lượt truy cập
- Tổng truy cập52,991,127
Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam
Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.
*Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...
Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.
WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)
Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.
The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.
Enjoy life, enjoy Arita experience!
Đọc nhiều nhất
- Phạm Hổ - Thơ viết cho nhi đồng
- Người của giang hồ (5): Lâm Chín ngón
- Thuật quan sát người (4)
- Người của giang hồ (11): Hải bánh
- Người của giang hồ (8): Huỳnh Tỳ
- Thuật quan sát người (2)
- Vài nét về tục Cúng Mụ, đầy tháng, thôi nôi
- Vài tư liệu về Tục thờ Thánh Mẫu
- Chùm thơ về Tây Nguyên
- Chuyện Sọ Dừa
Thơ
34
Now I tell what I knew in Texas in my early youth,
(I tell not the fall of Alamo,
Not one escaped to tell the fall of Alamo,
The hundred and fifty are dumb yet at Alamo,)
’Tis the tale of the murder in cold blood of four hundred and twelve young men.
Retreating they had form’d in a hollow square with their baggage for breastworks,
Nine hundred lives out of the surrounding enemy’s, nine times their number, was the price they took in advance,
Their colonel was wounded and their ammunition gone,
They treated for an honorable capitulation, receiv’d writing and seal, gave up their arms and march’d back prisoners of war.
They were the glory of the race of rangers,
Matchless with horse, rifle, song, supper, courtship,
Large, turbulent, generous, handsome, proud, and affectionate,
Bearded, sunburnt, drest in the free costume of hunters,
Not a single one over thirty years of age.
The second First-day morning they were brought out in squads and massacred, it was beautiful early summer,
The work commenced about five o’clock and was over by eight.
None obey’d the command to kneel,
Some made a mad and helpless rush, some stood stark and straight,
A few fell at once, shot in the temple or heart, the living and dead lay together,
The maim’d and mangled dug in the dirt, the new-comers saw them there,
Some half-kill’d attempted to crawl away,
These were despatch’d with bayonets or batter’d with the blunts of muskets,
A youth not seventeen years old seiz’d his assassin till two more came to release him,
The three were all torn and cover’d with the boy’s blood.
At eleven o’clock began the burning of the bodies;
That is the tale of the murder of the four hundred and twelve young men.
34
Giờ đây tôi kể mình biết gì ở Texas lúc vừa mới lớn,
(Tôi không kể chuyện Alamo thất thủ ra sao,
Không ai trốn thoát để kể chuyện Alamo thất thủ,
Một trăm năm mươi người ở Alamo vẫn còn câm lặng,)
Mà đây là câu chuyện bốn trăm mười hai chàng trai bị tàn sát lạnh lùng.
Họ rút lui và đào một hố vuông với hành lý chất thành chiến lũy,
Chín trăm mạng lính bao vây, gấp chín lần quân số họ, là cái giá quân thù phải ứng trước trận này,
Nhưng rồi người chỉ huy bị thương và trong kho hết đạn,
Họ thương thảo đầu hàng trong danh dự, có được bản niêm phong cam kết, họ buông súng và quay về thân phận tù binh.
Họ là niềm vinh quang của nòi biệt động quân ,
Không ai bì về tài cưỡi ngựa, bắn súng, đàn ca, ăn nhậu và tán gái,
Cao lớn, quậy tưng, rộng lượng, đẹp trai, tự hào và đầy tình cảm,
Râu ria, rám nắng, vận đồ thoải mái của thợ săn,
Không một ai quá ba mươi tuổi.
Sáng ngày chủ nhật thứ hai họ bị lôi ra từng tốp và tàn sát, lúc đó là đầu mùa hạ đẹp tươi,
Cuộc thảm sát bắt đầu khoảng năm giờ và tám giờ kết thúc.
Không ai tuân lệnh kẻ thù quỳ gối,
Một số lao đầu bỏ chạy điên cuồng bất lực, một số đứng thẳng người,
Số ít ngã xuống ngay lập tức, bị bắn vào màng tang hay vào tim, người sống nằm lẫn cùng người chết,
Người bị thương và người què cụt rúc vào trong đất, những người mới đến nhìn thấy rõ ràng,
Một số người chết dở dang cố lết mình đi trốn,
Bị kết liễu bằng lưỡi lê hay đập chết bằng báng súng trường,
Một chàng trai chưa tròn mười bảy ghì lấy tên sát nhân cho đến khi thêm hai tên đến cứu,
Cả ba tên tơi tả và phủ đầy máu cậu trai.
Lúc mười một giờ việc thiêu xác bắt đầu;
Đó là câu chuyện tàn sát bốn trăm mười hai chàng trai trẻ.
Bình chú: Bản catalog về cái chết và nỗi đau kết thúc Đoạn 33 được tiếp tục bằng một loạt câu chuyện kể kéo dài. Đầu tiên là hồi ức về cái chết đông người trong một trận đánh giành độc lập cho Texas, mà sẽ dẫn tới cuộc Chiến tranh Mexico. Tuy cái tên Alamo được đưa ra ở đây, nhưng thực ra sự kiện ghi lại là vụ thảm sát các biệt động quân Texas ở Goliad năm 1836. Tiếp sau sẽ là câu chuyện về trận hải chiến (Đoạn 35 và 36).
35
Would you hear of an old-time sea-fight?
Would you learn who won by the light of the moon and stars?
List to the yarn, as my grandmother’s father the sailor told it to me.
Our foe was no skulk in his ship I tell you, (said he,)
His was the surly English pluck, and there is no tougher or truer, and never was, and never will be;
Along the lower’d eve he came horribly raking us.
We closed with him, the yards entangled, the cannon touch’d,
My captain lash’d fast with his own hands.
We had receiv’d some eighteen pound shots under the water,
On our lower-gun-deck two large pieces had burst at the first fire, killing all around and blowing up overhead.
Fighting at sun-down, fighting at dark,
Ten o’clock at night, the full moon well up, our leaks on the gain, and five feet of water reported,
The master-at-arms loosing the prisoners confined in the after-hold to give them a chance for themselves.
The transit to and from the magazine is now stopt by the sentinels,
They see so many strange faces they do not know whom to trust.
Our frigate takes fire,
The other asks if we demand quarter?
If our colors are struck and the fighting done?
Now I laugh content, for I hear the voice of my little captain,
We have not struck, he composedly cries, we have just begun our part of the fighting.
Only three guns are in use,
One is directed by the captain himself against the enemy’s mainmast,
Two well serv’d with grape and canister silence his musketry and clear his decks.
The tops alone second the fire of this little battery, especially the main-top,
They hold out bravely during the whole of the action.
Not a moment’s cease,
The leaks gain fast on the pumps, the fire eats toward the powder-magazine.
One of the pumps has been shot away, it is generally thought we are sinking.
Serene stands the little captain,
He is not hurried, his voice is neither high nor low,
His eyes give more light to us than our battle-lanterns.
Toward twelve there in the beams of the moon they surrender to us.
35
Bạn có nghe về trận hải chiến xa xưa?
Bạn có biết ai đã thắng dưới ánh trăng sao đêm ấy?
Hãy nghe câu chuyện tôi đã nghe người cha thủy thủ của bà tôi kể lại.
Phải nói rằng kẻ thù của ta không phải đồ bèo nhèo trên chiến thuyền của họ (cụ tôi nói thế),
Họ có sự can trường khắc nghiệt của dân Ăng-lê, không gì thật hơn và khó chơi hơn, chưa bao giờ và sẽ không bao giờ có;
Trong đêm xuống dần họ đến tấn công khủng khiếp hòng quét ta đi.
Chúng ta áp mạn thuyền, trục buồm vướng vào nhau, những khẩu pháo đụng nhau,
Thuyền trưởng của ta tự tay cột dây thật chặt.
Chúng ta nhận những quả đạn mười cân nổ ngầm dưới nước,
Trên boong thấp hai cỗ pháo lớn nổ tung ngay phát đạn đầu tiên, giết hết người xung quanh và bắn tung lên quá đỉnh đầu.
Chúng ta chiến đấu lúc chiều tà, chiến đấu trong bóng tối,
Mười giờ đêm, trăng rằm lên cao, những lỗ rò rỉ tăng thêm, nước ngập lòng thuyền năm bộ,
Những tù nhân bị giam trong hầm phía sau được thả để có cơ may tự cứu lấy mình.
Giờ đây lính canh bắt ngưng mọi sự đi lại qua kho đạn,
Họ thấy quá nhiều gương mặt lạ mà không biết tin ai.
Chiến thuyền của ta bắt lửa rồi,
Thuyền địch hỏi có xin tha mạng,
Có hạ cờ và kết thúc giao tranh?
Ta cười hởi lòng vì nghe tiếng vị thuyền trưởng thân hình nhỏ thó,
Chúng ta không hạ cờ, ông điềm tĩnh hô to, cuộc chiến đấu của chúng ta chỉ mới bắt đầu.
Chỉ có ba khẩu pháo còn dùng được,
Một khẩu do đích thân thuyền trưởng nhắm vào cột buồm chính của quân thù,
Hai khẩu dồi dào đạn bi đạn ghém làm câm bặt loạt súng nhỏ nhoi và dọn sạch boong thuyền.
Chỉ có những ổ súng trên lưng cột buồm yểm trợ, đặc biệt là ổ súng trên cây buồm chính,
Nhưng họ vẫn kiên gan suốt cuộc giao tranh.
Không một lúc ngừng,
Nước vào qua những lỗ rò nhanh hơn những chiếc bơm, lửa liếm đến kho thuốc súng.
Một chiếc bơm bị bắn văng đi, ai cũng nghĩ thuyền chìm.
Vị truyền trưởng nhỏ bé đứng yên bình thản,
Ông không hối hả, giọng ông không bổng không trầm,
Ánh mắt ông sáng hơn những cây đèn trận.
Khoảng mười hai giờ đêm trong ánh trăng vằng vặc quân địch đầu hàng.
36
Stretch’d and still lies the midnight,
Two great hulls motionless on the breast of the darkness,
Our vessel riddled and slowly sinking, preparations to pass to the one we have conquer’d,
The captain on the quarter-deck coldly giving his orders through a countenance white as a sheet,
Near by the corpse of the child that serv’d in the cabin,
The dead face of an old salt with long white hair and carefully curl’d whiskers,
The flames spite of all that can be done flickering aloft and below,
The husky voices of the two or three officers yet fit for duty,
Formless stacks of bodies and bodies by themselves, dabs of flesh upon the masts and spars,
Cut of cordage, dangle of rigging, slight shock of the soothe of waves,
Black and impassive guns, litter of powder-parcels, strong scent,
A few large stars overhead, silent and mournful shining,
Delicate sniffs of sea-breeze, smells of sedgy grass and fields by the shore, death-messages given in charge to survivors,
The hiss of the surgeon’s knife, the gnawing teeth of his saw,
Wheeze, cluck, swash of falling blood, short wild scream, and long, dull, tapering groan,
These so, these irretrievable.
36
Đêm khuya khoắt trải dài im ắng,
Hai thân tàu lớn nằm bất động trên ngực màn đen,
Chiến thuyền của chúng ta thủng lỗ chỗ và chìm dần, chúng ta chuẩn bị chuyển qua con thuyền chiếm được,
Thuyền trưởng đứng trên boong trước lạnh lùng ra lệnh sắc mặt ông trắng bệch như vôi,
Gần bên xác cậu trai hầu phòng thân cận,
Khuôn mặt cứng đờ của một sói biển già với mái tóc dài bạc phơ và hàm râu uốn tỉa,
Những ngọn lửa bất chấp mọi cố gắng của người giập lửa vẫn bập bùng dưới thấp trên cao,
Những giọng khàn khàn của hai hay ba sĩ quan còn đủ sức làm nhiệm vụ,
Những đống xác bất thành hình dạng và những cái xác lẻ loi, những mảnh thịt trên cột buồm và trụ,
Những đoạn thừng, những mảnh buồm chão lòng thòng, những vỏ bao thuốc súng vương vãi, khét nồng,
Vài ngôi sao lớn trên đầu chiếu ánh sáng lặng lờ và tang tóc,
Thoảng hơi gió biển, mùi cỏ lách và đồng bãi ven bờ, những lời người chết nhắn nhe người sống sót,
Tiếng xoàn xoạt con dao người phẫu thuật, tiếng ken két lưỡi cưa,
Tiếng khò khè, khùng khục, tiếng máu rơi xuống đất, tiếng la hét dại man ngắn ngủi và tiếng rên âm ỉ kéo dài,
Như thế đấy, những cái không thể nào bù đắp.
37
You laggards there on guard! look to your arms!
In at the conquer’d doors they crowd! I am possess’d!
Embody all presences outlaw’d or suffering,
See myself in prison shaped like another man,
And feel the dull unintermitted pain.
For me the keepers of convicts shoulder their carbines and keep watch,
It is I let out in the morning and barr’d at night.
Not a mutineer walks handcuff’d to jail but I am handcuff’d to him and walk by his side,
(I am less the jolly one there, and more the silent one with sweat on my twitching lips.)
Not a youngster is taken for larceny but I go up too, and am tried and sentenced.
Not a cholera patient lies at the last gasp but I also lie at the last gasp,
My face is ash-color’d, my sinews gnarl, away from me people retreat.
Askers embody themselves in me and I am embodied in them,
I project my hat, sit shame-faced, and beg.
37
Hỡi những kẻ rề rà đang canh gác đằng kia! Hãy sẵn sàng vũ khí!
Kìa họ chen chân đi vào cửa của người thua trận! Tâm trí tôi bị ám ảnh mất rồi!
Tôi hiện thân mọi kẻ có mặt ở đây, những kẻ khổ đau hay bị đặt ngoài vòng pháp luật,
Tôi thấy chính mình giữa lao tù trong hình dạng giống như người tù khác,
Và cảm nhận nỗi đớn đau âm ỉ triền miên,
Chính vì tôi mà những cai tù giương súng lên vai và tuần tra canh gác,
Chính tôi được ra ngoài buổi sáng và bị giam giữ ban đêm.
Không phải một kẻ nổi loạn bị còng tay đi đến nhà tù nhưng tôi cũng bị còng vào tay người ấy và bước đi bên cạnh,
(tôi không phải kẻ vui vẻ gì đâu mà là người im lặng hai môi run rảy đọng mồ hôi).
Không phải anh chàng bị bắt vì trộm cắp nhưng tôi cũng ở đấy cùng anh, cũng ra tòa và bị xử.
Không phải người bệnh thổ tả nằm thở hắt nhưng tôi cũng nằm thở hắt,
Mặt tôi xám như tro, gân nổi cục, mọi người lui lại tránh tôi.
Những người ăn xin hiện thân trong tôi và tôi hiện thân trong họ,
Tôi chìa mũ ra, ngồi xượng mặt và xin.
Bình chú: Đoạn 37 bắt đầu như thể tiếp tục câu chuyện về trận hải chiến, nhưng rồi một cái gì lạ lùng bất thần xảy ra: Cái “Tôi” mà ta đã quen trong bài thơ, giờ đây dường như bị “ám”. Cái “Tôi” trước đây chia sẻ nỗi đau với những người đau khổ, thậm chí nhận lấy căn cước của người chịu đau đớn, giờ đây, thay vì hấp thụ những người khác vào mình, bản thân nó lại bị ám, bị chiếm lĩnh bởi những kẻ bất hạnh. Ở đoạn thơ này, cái Tôi dân chủ của Whitman, với ý tưởng mỗi cá thể tiềm tàng bất cứ cá thể nào khác, được thử đẩy tới xa hết mức khi tự đồng nhất mình với những người tuyệt vọng.
38
Enough! enough! enough!
Somehow I have been stunn’d. Stand back!
Give me a little time beyond my cuff’d head, slumbers, dreams, gaping,
I discover myself on the verge of a usual mistake.
That I could forget the mockers and insults!
That I could forget the trickling tears and the blows of the bludgeons and hammers!
That I could look with a separate look on my own crucifixion and bloody crowning.
I remember now,
I resume the overstaid fraction,
The grave of rock multiplies what has been confided to it, or to any graves,
Corpses rise, gashes heal, fastenings roll from me.
I troop forth replenish’d with supreme power, one of an average unending procession,
Inland and sea-coast we go, and pass all boundary lines,
Our swift ordinances on their way over the whole earth,
The blossoms we wear in our hats the growth of thousands of years.
Eleves, I salute you! come forward!
Continue your annotations, continue your questionings.
38
Đủ rồi! đủ rồi! đủ rồi!
Tôi đã hơi choáng váng! Xin hãy lui đi!
Hãy cho tôi ít thời gian vượt qua lúc choáng đầu, vượt qua cơn ngủ mê và ngáp dài ngáp ngắn,
Tôi khám phá ra chính mình khi sắp rơi vào lầm lỗi thường tình.
Để tôi có thể quên đi những kẻ nhạo cười và sỉ nhục!
Để tôi có thể quên đi nước mắt nhỏ dài và những trận dìu búa với dùi cui!
Để tôi có thể nhìn cách riêng sự thọ hình câu rút và đội chiếc vương miện máu của riêng mình!
Giờ đây tôi nhớ lại,
Tôi tái tục cái phần con người mình đã bị lưu giữ quá lâu,
Ngôi mộ đá nhân lên vật người ta gửi vào, gửi vào nó hay bất cứ ngôi mộ nào cũng thế,
Những cái xác đứng lên, những vết thương lành lại, những dây buộc tuột khỏi tôi.
Lại tràn đầy sức lực tối cao, tôi tiến bước trong đám rước của mọi người bình thường, đám rước dài bất tận,
Chúng tôi đi trong nội địa và ven bờ biển, vượt qua mọi đường biên,
Những nghi lễ lẹ làng của chúng tôi triển khai trên toàn trái đất,
Những mùa hoa chúng tôi mang trên mũ là kết từ ngàn vạn năm trường.
Hỡi các em học sinh, ta chào các em! Hãy mau tiến tới!
Tiếp tục bình giải đi, tiếp tục hỏi đi nào!
Bình chú: Ba tán thán ngữ mở đầu “Đủ rồi! Đủ rồi! Đủ rồi!” thể hiện tác giả như sực tỉnh sau những giây phút sa vào sai lầm vì nhầm tưởng sự chế giễu, sỉ nhục, nước mắt và đòn đánh là ý nghĩa chủ yếu của cuộc sống. Ông nói: “Tôi tái tục cái phần con người mình đã bị lưu giữ quá lâu”, đó là những khía cạnh sinh sôi, yêu thương và phát triển của đời sống. Ông gợi lại câu chuyện Chúa Kitô sống lại. Trong những ghi chú cho đoạn thơ này, Whitman liên kết nhà thơ với một Chúa Kitô Mỹ: “Hoài công đinh đóng xuyên bàn tay tôi/ Tôi nhớ lại cuộc đóng đinh câu rút và khoác chiếc mũ miện máu/… Tôi vẫn còn sống ở New York và San Francisco / Tôi lại dẫm chân trên phố sau 2000 năm”. Vậy là nhà thơ đã sẵn sàng “Lại tràn đầy sức lực tối cao, tôi tiến bước trong đám rước của mọi người bình thường, đám rước dài bất tận”. Bản chất của dân chủ là sự bình đẳng của mọi người trong quan hệ với Thượng đế, thừa nhận cái thần thánh trong mỗi cá nhân bình thường trong đám diễu hành bất tận tới tương lai. Và ông kêu gọi chúng ta – các “học trò” (ông dùng từ tiếng Pháp “élèves” có lẽ để gợi ra vai trò tích cực của sinh viên Pháp trong Cách mạng 1848) tiếp tục đi với mình trong hành trình thơ này.
39
The friendly and flowing savage, who is he?
Is he waiting for civilization, or past it and mastering it?
Is he some Southwesterner rais’d out-doors? is he Kanadian?
Is he from the Mississippi country? Iowa, Oregon, California?
The mountains? prairie-life, bush-life? or sailor from the sea?
Wherever he goes men and women accept and desire him,
They desire he should like them, touch them, speak to them, stay with them.
Behavior lawless as snow-flakes, words simple as grass, uncomb’d head, laughter, and naiveté,
Slow-stepping feet, common features, common modes and emanations,
They descend in new forms from the tips of his fingers,
They are wafted with the odor of his body or breath, they fly out of the glance of his eyes.
39
Kẻ hoang dã thân thiện và luôn biến đổi kia, anh là ai nhỉ?
Anh đang chờ đợi văn minh hay đã vượt qua và làm chủ nó rồi?
Anh là dân miền Tây Nam lớn lên ở ngoài trời? anh là dân Gia Nã Đại?
Từ vùng Missisipi? Iowa, Oregon, California?
Từ vùng núi cao? sống đời rừng, đời đồng cỏ? hay thủy thủ biển khơi?
Anh đi đến đâu cũng được đàn ông đàn bà nhận vào và thèm muốn,
Họ thèm được anh yêu thích, chạm vào người, nói với, và ở lại nhà.
Cư xử phóng túng như tuyết rơi, lời lẽ đơn sơ như cỏ, tóc không chải, ngây thơ cười váng,
Hai chân bước đi chầm chậm, dung tục từ dáng vẻ, cung cách đến tinh thần không khí toát ra,
Họ sinh ra trong những hình dạng mới từ đầu ngón tay anh vẽ xuống,
Họ thoảng mùi cơ thể hay hơi thở anh, họ tuôn ra từ ánh mắt anh.
Bình chú: Sau khi sống lại và tràn đầy sinh lực mới, nhà thơ giới thiệu một hóa thân kỳ bí mới, “kẻ hoang dã thân thiện và luôn thay đổi”. Căn tính Mỹ mới xuất hiện được liên kết với tính hoang dã và dường như là pha trộn của người tiên phong Mỹ với thổ dân Mỹ. Căn tính mà Whitman ca ngợi ở đây tồn tại trong cái không gian văn hóa ở giữa chừng “sự hoang dã” và “văn minh” như nhà sử học Frederick Jackson Turner nói, ở đó căn tính Mỹ mang tính tự lực và thô tháp được hình thành trên biên giới. Người “hoang dã” mới này “luôn biến đổi” vì căn tính của anh phải đáp ứng sự thay đổi không ngừng của môi trường và các điều kiện sống. Tồn tại nơi biên giới hằng di chuyển – giữa nền văn minh mới xuất hiện và cái hoang dã đang biến dần – “người hoang dã” mới luôn luôn chờ đón văn minh đến từ miền Đông nhưng cũng về mặt nào đó “vượt qua” văn minh và “làm chủ” nó, vì anh ta buông lỏng hơn, độc lập hơn, “vô thiên vô pháp” hơn trong cách cư xử, ít lịch thiệp hơn trong ăn nói, thoải mái hơn về thân xác so với những công dân “văn minh” hơn của miền Đông. Whitman tin rằng tương lai của nước Mỹ là ở miền Tây, ông gợi lên những nơi chốn mà đời sống biên cương sống động, từ Canada đến Oregon, Iowa, Mississippi. Whitman hy vọng rằng trải nghiệm của biên cương Mỹ sẽ cho kết quả là một nền hóa rất khác với những nền văn hóa châu Âu mà nó bỏ lại phía sau, và “người hoang dã thân thiện và luôn thay đổi” của ông trở thành mẫu người bình thường của người Mỹ mới, đầy tình yêu và giản dị, đầy sức mạnh. Và bất cứ nơi nào anh đến, một nền dân chủ thô sơ được vật chất hóa.
40
Flaunt of the sunshine I need not your bask—lie over!
You light surfaces only, I force surfaces and depths also.
Earth! you seem to look for something at my hands,
Say, old top-knot, what do you want?
Man or woman, I might tell how I like you, but cannot,
And might tell what it is in me and what it is in you, but cannot,
And might tell that pining I have, that pulse of my nights and days.
Behold, I do not give lectures or a little charity,
When I give I give myself.
You there, impotent, loose in the knees,
Open your scarf’d chops till I blow grit within you,
Spread your palms and lift the flaps of your pockets,
I am not to be denied, I compel, I have stores plenty and to spare,
And any thing I have I bestow.
I do not ask who you are, that is not important to me,
You can do nothing and be nothing but what I will infold you.
To cotton-field drudge or cleaner of privies I lean,
On his right cheek I put the family kiss,
And in my soul I swear I never will deny him.
On women fit for conception I start bigger and nimbler babes.
(This day I am jetting the stuff of far more arrogant republics.)
To any one dying, thither I speed and twist the knob of the door.
Turn the bed-clothes toward the foot of the bed,
Let the physician and the priest go home.
I seize the descending man and raise him with resistless will,
O despairer, here is my neck,
By God, you shall not go down! hang your whole weight upon me.
I dilate you with tremendous breath, I buoy you up,
Every room of the house do I fill with an arm’d force,
Lovers of me, bafflers of graves.
Sleep—I and they keep guard all night,
Not doubt, not decease shall dare to lay finger upon you,
I have embraced you, and henceforth possess you to myself,
And when you rise in the morning you will find what I tell you is so.
40
Này ánh nắng phô trương, ta không cần ngươi tắm táp đâu mà – hãy khoan cái đã!
Ngươi chỉ chiếu sáng trên bề mặt, còn ta chiếm cả bề mặt lẫn bề sâu.
Hỡi trái đất! dường như ngươi tìm gì trong hai bàn tay ta đó,
Hãy nói đi, cái búi tó già khú đế, ngươi muốn cái gì nào?
Bạn là nữ hay nam, tôi muốn nói tôi yêu thích bạn, nhưng tôi không nói được,
Và muốn nói lên điều sâu xa trong tôi và trong bạn, nhưng tôi không nói được,
Và muốn nói lên điều tôi mong mỏi thiết tha, bổi hổi đêm ngày.
Hãy coi đây, tôi không lên lớp dạy đời hay ban chút quà bố thí,
Khi tôi cho là cho hết chính mình.
Các anh đấy, bất lực, đầu gối lung lay,
Hãy mở miệng ra giữa đống khăn quàng, cho tôi thổi dũng khí vào anh đó,
Hãy xòe tay và lật nắp túi lên,
Tôi không thể bị chối từ, tôi ép buộc, tôi có những kho đầy và thừa thãi,
Và mọi thứ của mình tôi sẽ đem cho.
Tôi không hỏi anh là ai, điều ấy với tôi không quan trọng,
Anh không thể làm gì và không là gì ngoài cái mà tôi phủ bọc người anh.
Tôi ngả về phía người nô lệ trồng bông hay người chùi nhà xí,
Trên má phải của anh tôi đặt chiếc hôn tình nghĩa gia đình,
Và tự thâm tâm tôi thề sẽ không bao giờ chối bỏ các anh.
Với người nữ đợi hoài thai tôi khởi tạo những bé con to lớn và thông minh hơn nữa,
(ngày hôm nay tôi phun chất dịch của những nền cộng hòa quá đỗi kiêu căng).
Ai đang hấp hối, tôi hối hả chạy tới vặn nắm cửa nhà thương,
Cuốn tấm ra xuống chân giường,
Cho thầy thuốc và thầy tu về nhà ráo trọi.
Tôi nắm bàn tay kẻ đang tuột dốc và kéo lên bằng ý chí không thể nào cưỡng lại,
Ơi con người tuyệt vọng, đây là cần cổ của tôi,
Lạy Trời, anh sẽ không gục xuống đâu! Hãy đeo cả thân mình anh vào đấy.
Tôi làm anh nở ra bằng hơi thở mạnh, tôi làm anh bồng lên,
Tôi đặt các lực lượng vũ trang đầy ắp mỗi căn phòng,
Đó là những người yêu tôi, những người cản lối ra huyệt mả.
Hãy ngủ đi – tôi và họ suốt đêm canh gác,
Không nỗi hoài nghi, không bệnh tật nào dám đặt một ngón tay lên người anh,
Tôi đã ôm anh, và từ lúc ấy tôi sở hữu anh cho tôi đấy,
Và sáng mai khi anh ngồi dậy anh sẽ thấy đó là điều tôi nói với anh.
Bình chú: Nhà thơ không cần “tắm” nắng, vì ông sẽ tự mình tỏa sáng hơn cả mặt trời bằng cách đi sâu xuống bên dưới bề mặt mọi vật và mọi người mình gặp, ở đó ông có thể nhìn thấy sự vận động và thay đổi, nỗi thất vọng và niềm hy vọng. Trái đất dường như muốn có cái gì “trong tay” nhà thơ, vậy là nhà thơ viết lên bài thơ-trái đất này. Cũng với tinh thần không kỳ thị như bản thân trái đất, ông đón chào tất cả những gì tắm dưới nắng trời, sẵn sàng ôm lấy mọi người, kể cả những người dưới đáy, những người tuyệt vọng nhất.
“Đem cho chính bản thân mình”, bàn tay của nhà thơ là bàn tay người chữa trị và người yêu, nhà thơ thổi vào chúng ta tình yêu và niềm hy vọng, và sức sống mới.
(còn tiếp)
Nguồn: Lá cỏ - Bài hát chính tôi {SONG OF MYSELF}. Tác giả Walt Whitman. Hoàng Hưng dịch từ nguyên tác: Leaves of Grass (final "Death-Bed" edition, 1891-2) (David McKay, 1892). NXB Hội Nhà văn, 2015.
Cám ơn Nhà thơ, Dịch giả gửi www.trieuxuan.info
Tìm kiếm
Lượt truy cập
- Tổng truy cập52,991,127
Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam
Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.
*Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...
Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.
WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)
Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.
The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.
Enjoy life, enjoy Arita experience!
Đọc nhiều nhất
- Phạm Hổ - Thơ viết cho nhi đồng
- Người của giang hồ (5): Lâm Chín ngón
- Thuật quan sát người (4)
- Người của giang hồ (11): Hải bánh
- Người của giang hồ (8): Huỳnh Tỳ
- Thuật quan sát người (2)
- Vài nét về tục Cúng Mụ, đầy tháng, thôi nôi
- Vài tư liệu về Tục thờ Thánh Mẫu
- Chùm thơ về Tây Nguyên
- Chuyện Sọ Dừa