Tìm kiếm
Lượt truy cập
- Tổng truy cập55,841,640
Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam
Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.
*Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...
Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.
WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)
Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.
The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.
Enjoy life, enjoy Arita experience!
Đọc nhiều nhất
- Phạm Hổ - Thơ viết cho nhi đồng
- Người của giang hồ (5): Lâm Chín ngón
- Thuật quan sát người (4)
- Người của giang hồ (11): Hải bánh
- Người của giang hồ (8): Huỳnh Tỳ
- Thuật quan sát người (2)
- Vài nét về tục Cúng Mụ, đầy tháng, thôi nôi
- Vài tư liệu về Tục thờ Thánh Mẫu
- Chùm thơ về Tây Nguyên
- Chuyện Sọ Dừa
Thơ
7
Has any one supposed it lucky to be born?
I hasten to inform him or her it is just as lucky to die, and I know it.
I pass death with the dying and birth with the new-wash’d babe, and am not contain’d between my hat and boots,
And peruse manifold objects, no two alike and every one good,
The earth good and the stars good, and their adjuncts all good.
I am not an earth nor an adjunct of an earth,
I am the mate and companion of people, all just as immortal and fathomless as myself,
(They do not know how immortal, but I know.)
Every kind for itself and its own, for me mine male and female,
For me those that have been boys and that love women,
For me the man that is proud and feels how it stings to be slighted,
For me the sweet-heart and the old maid, for me mothers and the mothers of mothers,
For me lips that have smiled, eyes that have shed tears,
For me children and the begetters of children.
Undrape! you are not guilty to me, nor stale nor discarded,
I see through the broadcloth and gingham whether or no,
And am around, tenacious, acquisitive, tireless, and cannot be shaken away.
7
Liệu có ai cho rằng được sinh ra là may mắn?
Tôi phải cho người ấy biết ngay rằng chết đi cũng may mắn, và tôi biết rõ điều này.
Tôi trải qua cái chết cùng người chết và trải qua sự sinh nở cùng với đứa hài nhi vừa được tắm, và tôi không bị bó khuôn từ chỏm mũ đến đế giày,
Tôi nhìn kỹ đủ loại vật thể, không có đến hai cái giống nhau và cái nào cũng tốt đẹp như nhau,
Trái đất tốt đẹp, sao trời tốt đẹp, và những phụ tùng của trái đất với sao trời tất cả đều tốt đẹp.
Tôi không phải là đất cũng không phải một phụ tùng của đất,
Tôi là kẻ phối ngẫu và bạn đồng hành của mọi người, tất cả họ cũng bất tử và khôn dò như bản thân tôi,
(Họ không biết mình bất tử đến thế nào, nhưng tôi biết).
Loài giống nào cũng vì chính mình và những cái thuộc về mình, vì tôi - loài giống của tôi cả nam lẫn nữ,
Vì tôi - những ai đã từng là con trai yêu con gái,
Vì tôi - người đàn ông tự hào và cảm thấy đau vì bị coi thường,
Vì tôi - người yêu dấu và cô gái già, vì tôi - các bà mẹ và mẹ của các mẹ,
Vì tôi - những đôi môi đã mỉm cười, những đôi mắt từng nhỏ lệ,
Vì tôi - lũ trẻ con và những người sinh ra trẻ con.
Hãy bỏ tấm màn che! Với tôi bạn không có tội gì, không ôi thiu không bị thải bỏ,
Dẫu thế nào tôi cũng nhìn thấu qua len qua vải,
Và tôi quanh quẩn, bền gan, ham hố, không biết mệt, và không thể rũ đi.
8
The little one sleeps in its cradle,
I lift the gauze and look a long time, and silently brush away flies with my hand.
The youngster and the red-faced girl turn aside up the bushy hill,
I peeringly view them from the top.
The suicide sprawls on the bloody floor of the bedroom,
I witness the corpse with its dabbled hair, I note where the pistol has fallen.
The blab of the pave, tires of carts, sluff of boot-soles, talk of the promenaders,
The heavy omnibus, the driver with his interrogating thumb, the clank of the shod horses on the granite floor,
The snow-sleighs, clinking, shouted jokes, pelts of snow-balls,
The hurrahs for popular favorites, the fury of rous’d mobs,
The flap of the curtain’d litter, a sick man inside borne to the hospital,
The meeting of enemies, the sudden oath, the blows and fall,
The excited crowd, the policeman with his star quickly working his passage to the centre of the crowd,
The impassive stones that receive and return so many echoes,
What groans of over-fed or half-starv’d who fall sunstruck or in fits,
What exclamations of women taken suddenly who hurry home and give birth to babes,
What living and buried speech is always vibrating here, what howls restrain’d by decorum,
Arrests of criminals, slights, adulterous offers made, acceptances, rejections with convex lips,
I mind them or the show or resonance of them—I come and I depart.
8
Đứa bé con ngủ trong nôi,
Tôi lật màn lên nhìn một hồi lâu, và lặng lẽ đưa tay xua ruồi nhặng.
Chàng trai trẻ và cô gái mặt đỏ au rẽ lên đồi cây,
Từ đỉnh đồi tôi nhòm xuống họ.
Kẻ tự tử sóng soài trên sàn phòng ngủ đẫm máu,
Tôi chứng kiến cái thây với mái tóc bê bết, tôi ghi nhận nơi khẩu súng rơi.
Tiếng ba hoa của vỉa hè, những bánh xe ngựa, tiếng đế giày ống xoạt, tiếng trò chuyện của khách bộ hành,
Chiếc xe bus nặng nề, người lái xe giơ ngón cái lên hỏi, tiếng lanh canh móng ngựa trên nền hoa cương,
Những chiếc xe trượt tuyết, tiếng leng keng, những tiếng đùa vui la hét, những cú ném tuyết vào nhau,
Những tiếng hoan hô người công chúng yêu mê, sự cuồng nộ của đám đông phấn khích,
Tiếng phần phật của chiếc cáng che rèm chở người bệnh tới nhà thương,
Cuộc gặp mặt những kẻ thù, lời tuyên thệ bất thần, những cú đấm và ngã,
Đám đông kích động, viên cảnh binh đeo ngôi sao nhanh chóng mở đường vào giữa đám đông,
Những hòn đá vô cảm nhận và đáp trả quá nhiều tiếng vọng,
Những tiếng rên của kẻ bội thực hay chết đói dở ngã lăn ra vì say nắng hay ngất đi,
Những tiếng kêu của phụ nữ đột ngột đau đẻ hối hả về nhà sinh nở,
Lời nói nào đang sống và đã chôn vùi vẫn luôn rung động nơi đây, những tiếng hú nào bị lễ nghi kiềm chế,
Những vụ bắt bớ tội phạm, những sự khinh khi, những vụ gạ gẫm ngoại tình được đưa ra, chấp nhận, từ chối với đôi môi cong cớn,
Tôi bận tâm đến chúng, hoặc cảnh diễn ra hay tiếng dội của chúng – tôi đến và tôi đi.
Bình chú: Trong đoạn thơ này, Whitman cho ta bản catalog (danh mục liệt kê) đầu tiên liệt kê những âm thanh và hoạt động của đô thị, và ông sử dụng tiếng lóng một cách thành thục. Ông đặc biệt lưu ý đến thứ âm nhạc chói tai của thành thị (như nhà thơ William Carlos Williams về sau nói “thơ tồn tại trong chính cái ngôn ngữ mà chúng ta nghe thấy suốt đời”). Đến giữa TK 20, Allen Ginsberg cũng khám phá ra nguồn gốc của bài thơ dài Hú (Howl), tác phẩm tiêu biểu của Thế hệ Beat, chính là “những tiếng hú bị kìm nén bởi sự lịch thiệp”.
9
The big doors of the country barn stand open and ready,
The dried grass of the harvest-time loads the slow-drawn wagon,
The clear light plays on the brown gray and green intertinged,
The armfuls are pack’d to the sagging mow.
I am there, I help, I came stretch’d atop of the load,
I felt its soft jolts, one leg reclined on the other,
I jump from the cross-beams and seize the clover and timothy,
And roll head over heels and tangle my hair full of wisps.
9
Những cửa kho thóc nhà quê đã mở sẵn sàng,
Cỏ khô mùa gặt chất đầy cỗ xe bò đi chầm chậm,
Ánh sáng trong trẻo đùa trên sắc xám nâu pha màu xanh lục,
Những ôm cỏ đầy chất lên làm trĩu đống cỏ cao.
Tôi ở đó, tôi phụ giúp, tôi đến nằm xoài trên ngọn đống cỏ khô,
Tôi cảm thấy những cú xóc nhẹ, chân nọ gác lên chân kia,
Tôi nhảy từ xà nhà, túm lấy cỏ ba lá và cỏ đuôi mèo,
Và lăn lộn làm tóc rối tung đầy cỏ.
Bình chú: Whitman từ đô thị quay về nông thôn, có lẽ ông nhớ lại tuổi thơ ở trang trại gia đình tại Long Island (New York). Trong tự truyện của mình, Whitman nhớ lại khi còn bé, ông đã “thường ra cánh đồng, đi đến tận rìa đồng về phía hoàng hôn, trông thấy những đám rước bất tận của những con bò cái, nghe thấy tiếng nhạc của những cái chuông bằng đồng và thiếc... và hít thở không khí buổi chiều mát mẻ, ngọt ngào, ngát hương”.
10
Alone far in the wilds and mountains I hunt,
Wandering amazed at my own lightness and glee,
In the late afternoon choosing a safe spot to pass the night,
Kindling a fire and broiling the fresh-kill’d game,
Falling asleep on the gather’d leaves with my dog and gun by my side.
The Yankee clipper is under her sky-sails, she cuts the sparkle and scud,
My eyes settle the land, I bend at her prow or shout joyously from the deck.
The boatmen and clam-diggers arose early and stopt for me,
I tuck’d my trowser-ends in my boots and went and had a good time;
You should have been with us that day round the chowder-kettle.
I saw the marriage of the trapper in the open air in the far west, the bride was a red girl,
Her father and his friends sat near cross-legged and dumbly smoking, they had moccasins to their feet and large thick blankets hanging from their shoulders,
On a bank lounged the trapper, he was drest mostly in skins, his luxuriant beard and curls protected his neck, he held his bride by the hand,
She had long eyelashes, her head was bare, her coarse straight locks descended upon her voluptuous limbs and reach’d to her feet.
The runaway slave came to my house and stopt outside,
I heard his motions crackling the twigs of the woodpile,
Through the swung half-door of the kitchen I saw him limpsy and weak,
And went where he sat on a log and led him in and assured him,
And brought water and fill’d a tub for his sweated body and bruis’d feet,
And gave him a room that enter’d from my own, and gave him some coarse clean clothes,
And remember perfectly well his revolving eyes and his awkwardness,
And remember putting plasters on the galls of his neck and ankles;
He staid with me a week before he was recuperated and pass’d north,
I had him sit next me at table, my fire-lock lean’d in the corner.
10
Một mình đi xa vào rừng núi hoang vu tôi săn bắn,
Thơ thẩn diệu kỳ thấy mình nhẹ nhõm hân hoan,
Trong chiều muộn chọn một điểm an toàn để ngủ qua đêm,
Nhen lửa nướng con thú săn vừa giết,
Ngủ thiếp đi trên đống lá gom cùng với chú chó yêu, và cây súng để bên người.
Con thuyền cao tốc giương buồm xé ánh lân tinh và bụi nước,
Mắt tôi định rõ đất liền, tôi cúi mình ở mũi thuyền hay sướng vui la hét trên boong.
Các thuyền viên và người đào trai dậy sớm dừng chân chờ đợi,
Tôi giắt ống quần vào giầy ống và đi hưởng một ngày vui;
Lẽ ra hôm ấy bạn phải ở cùng chúng tôi, quanh nồi hải sản.
Tôi thấy đám cưới người bẫy thú giữa trời vùng đất viễn tây, cô dâu là gái thổ dân da đỏ,
Cha nàng và bè bạn ngồi bên bắt chéo chân và lặng im hút tẩu, chân giận giày da đanh và tấm chăn dày rộng vắt vai,
Trên bờ sông người bẫy thú nằm ườn, vận đồ bằng da, chòm râu rậm và những cuộn tóc che kín cổ, chàng cầm tay cô dâu âu yếm,
Nàng có hàng mi dài, đầu để trần, những lọn tóc thô thẳng đuột buông xuống đôi tay gợi cảm và dài đến tận chân.
Người nô lệ bỏ trốn đến nhà tôi và dừng chân ngoài cửa,
Tôi nghe răng rắc cành cây ở đống củi khô,
Qua cánh cửa bếp đung đưa tôi thấy anh mỏng manh và yếu ớt,
Và tôi đi đến chỗ anh ngồi trên khúc gỗ và để anh vào nhà và trấn tĩnh anh,
Và mang nước đến đổ đầy bồn tắm cho thân thể mồ hôi và đôi chân thâm tím của anh,
Và cho anh một phòng nối liền với phòng mình, và cho anh quần áo thô sạch sẽ,
Và tôi rất nhớ đôi mắt đảo quanh và vẻ vụng về lúng túng của anh,
Và nhớ mình đã đắp cao lên những vết trầy trên cổ và mắt cá chân anh;
Anh ở với tôi một tuần trước khi hồi phục và đi lên phía bắc,
Tôi mời anh đến bên bàn ngồi cạnh, khẩu súng của tôi trong góc ngả dài.
Bình chú: Đoạn 10 cho chúng ta một loạt chuyến đi tưởng tượng tới miền Tây hoang dã, vùng biển, và cuối cùng là một trạm nghỉ trên con đường sắt ngầm – một lối đi của những nô lệ bỏ trốn. Cái “Tôi” của bài thơ giờ đây vượt ra khỏi những trải nghiệm có thật của tác giả, ông muốn rằng cái “Tôi Thơ” của mình đi khắp lục địa (để làm được điều đó, ông sử dụng những câu chuyện đã nghe kể và những bức tranh đã xem). Vậy là đoạn thơ ghi lại sự vượt qua các biên giới xã hội văn hóa của Hợp Chúng Quốc. Từ những năm 1840 tác giả Pháp Alexis de Tocqueville đã ghi nhận rằng có “ba chủng tộc ở Mỹ” – da trắng, da đỏ, da đen – với những tính cách khác nhau rõ rệt. Nhưng ở đây Whitman cho ta hai cảnh hợp chủng – người bẫy thú da trắng cưới một cô thổ dân Da Đỏ, và nhân vật “Tôi” tiếp đón một nô lệ da đen bỏ trốn [Tác giả viết bài này vài năm trước nội chiến, hồi ấy phía Nam nước Mỹ là vùng duy trì chế độ nô lệ nặng nề còn ở phía Bắc tinh thần bài nô là chính thống- ND]
11
Twenty-eight young men bathe by the shore,
Twenty-eight young men and all so friendly;
Twenty-eight years of womanly life and all so lonesome.
She owns the fine house by the rise of the bank,
She hides handsome and richly drest aft the blinds of the window.
Which of the young men does she like the best?
Ah the homeliest of them is beautiful to her.
Where are you off to, lady? for I see you,
You splash in the water there, yet stay stock still in your room.
Dancing and laughing along the beach came the twenty-ninth bather,
The rest did not see her, but she saw them and loved them.
The beards of the young men glisten’d with wet, it ran from their long hair,
Little streams pass’d all over their bodies.
An unseen hand also pass’d over their bodies,
It descended tremblingly from their temples and ribs.
The young men float on their backs, their white bellies bulge to the sun, they do not ask who seizes fast to them,
They do not know who puffs and declines with pendant and bending arch,
They do not think whom they souse with spray.
11
Hai mươi tám chàng trai tắm bên bờ sông,
Hai mươi tám chàng trai tất cả quá chừng thân ái;
Hai mươi tám năm sống đời đàn bà hai mươi tám năm sao quá cô đơn.
Nàng có ngôi nhà đẹp bên dốc bờ sông,
Nàng ăn vận giàu sang giấu mình sau mành cửa sổ.
Nàng thích nhất chàng trai nào trong số họ?
A, chàng trai thô kệch nhất cũng đẹp với nàng.
Nàng rời nhà đi đâu đấy? vì tôi trông thấy nàng rồi,
Nàng bì bõm dưới sông kia mà vẫn trong phòng đứng lặng.
Người tắm thứ hai mươi chín xuống cười đùa nhảy nhót dọc bãi sông,
Những người kia không thấy nàng, nhưng nàng nhìn thấy và yêu họ.
Những chòm râu trẻ trai nhánh nước, nước chảy theo mớ tóc dài,
Những dòng suối nhỏ chảy tràn thân thể.
Một bàn tay vô hình cũng lướt trên thân thể họ,
Run rảy đưa từ trán xuống cạnh sườn.
Những chàng trai nằm ngửa bập bềnh, bụng trắng phồng lên phơi nắng, họ không hỏi ai ôm siết thân mình,
Họ không biết ai phì phào và nghiêng mình cong ưỡn,
Họ không nghĩ mình bắn tung bọt nước sũng người ai.
Bình chú: Đoạn thơ gây nhiều tranh cãi cho đến tận bây giờ, ngay từ ý nghĩa bí hiểm của con số 28 (28 bang của Hoa Kỳ lúc ban đầu? 28 ngày là chu kỳ kinh nguyệt phụ nữ? một con số thiêng của Ai Cập cổ?...). Có điều chắc chắn là ở đây tác giả tiếp tục tạo nên những sự vượt biên giới, lần này là biên giới giai cấp và giới tính. Người đàn bà giàu có, và chính vì giàu có mà bị ngăn cách khỏi cộng đồng; nàng không hề thoải mái trong tiện nghi vật chất của mình, và thèm khát một cách đau đớn được thoát ra để hòa đồng với đám trai tráng đang tắm truồng dưới sông. (Hình ảnh này đối nghịch với truyền thống phương Tây ghi nhận tật “voyeurism” – nhìn trộm – của nam giới và lên án tật xấu ấy, ở đây người chủ động là phụ nữ, và nàng hưởng thụ cảm xúc huê tình một cách vui sướng từ hành động nhìn trộm của mình). Hơn thế nữa, nàng trở thành người tắm thứ 29, và nhà thơ đàn ông quan sát nàng trở thành người tắm thứ 30, và người đọc – nam hay nữ - trở thành người tắm thứ 31 gia nhập trong tưởng tượng cuộc vui đùa phóng túng này. Đó là bài học của Whitman về việc trí tưởng tượng là một sức mạnh dân chủ đưa ta vượt qua các hàng rào tôn giáo, luân lý, quy phạm, giai cấp, kể cả định hướng tình dục, và buông mình theo dòng chảy của tư tưởng không phân biệt.
12
The butcher-boy puts off his killing-clothes, or sharpens his knife at the stall in the market,
I loiter enjoying his repartee and his shuffle and break-down.
Blacksmiths with grimed and hairy chests environ the anvil,
Each has his main-sledge, they are all out, there is a great heat in the fire.
From the cinder-strew’d threshold I follow their movements,
The lithe sheer of their waists plays even with their massive arms,
Overhand the hammers swing, overhand so slow, overhand so sure,
They do not hasten, each man hits in his place.
12
Cậu hàng thịt cởi bộ đồ giết mổ, hay mài dao trên quầy thịt chợ chiều,
Tôi lởn vởn ngắm nhìn chàng trai đối đáp và nhảy những điệu Mỹ Phi nhanh và mạnh.
Những chàng thợ rèn ngực lông lá đứng quanh đe
Mỗi người một cây búa tạ, dốc hết sức mình, lửa hầm hập nóng.
Từ ngưỡng cửa đầy xỉ than, tôi dõi theo từng động tác các anh,
Uyển chuyển eo lưng uốn cùng nhịp hai cánh tay đồ sộ,
Từ trên tầm vai búa giáng xuống, chầm chậm từ trên cao, từ trên cao chắc nịch,
Họ không vội vã, mỗi người quai búa vào đúng chỗ mình.
Bình chú: Tác giả quan sát những người trẻ trong công việc của họ. Đáng lưu ý là anh hàng thịt da đen. Ông dùng từ “repartee” một từ gốc Pháp, một thuật ngữ kiếm thuật (đáp trả lại một cú tấn công), một từ “thượng lưu” để diễn tả sự đối đáp sắc bén của anh. Và điệu nhảy “shuffle and break-down” của anh, hai điệu nhảy dân gian Mỹ-Phi rất nhanh và mạnh. Anh hàng thịt thể hiện sự vượt qua biên giới của chính mình, một sự khởi đầu sẽ sản sinh ra các dòng nhạc jazz, blues và hip-hop.
13
The negro holds firmly the reins of his four horses, the block swags underneath on its tied-over chain,
The negro that drives the long dray of the stone-yard, steady and tall he stands pois’d on one leg on the string-piece,
His blue shirt exposes his ample neck and breast and loosens over his hip-band,
His glance is calm and commanding, he tosses the slouch of his hat away from his forehead,
The sun falls on his crispy hair and mustache, falls on the black of his polish’d and perfect limbs.
I behold the picturesque giant and love him, and I do not stop there,
I go with the team also.
In me the caresser of life wherever moving, backward as well as forward sluing,
To niches aside and junior bending, not a person or object missing,
Absorbing all to myself and for this song.
Oxen that rattle the yoke and chain or halt in the leafy shade, what is that you express in your eyes?
It seems to me more than all the print I have read in my life.
My tread scares the wood-drake and wood-duck on my distant and day-long ramble,
They rise together, they slowly circle around.
I believe in those wing’d purposes,
And acknowledge red, yellow, white, playing within me,
And consider green and violet and the tufted crown intentional,
And do not call the tortoise unworthy because she is not something else,
And the jay in the woods never studied the gamut, yet trills pretty well to me,
And the look of the bay mare shames silliness out of me.
13
Người da đen giữ chắc dây cương bốn ngựa, khối đá xệ xuống bên trên dây xích buộc chằng,
Người da đen đánh xe từ xưởng đá, vững vàng cao lớn, đứng thăng bằng một chân trên thanh gỗ nằm ngang,
Chiếc sơ mi xanh phơi cần cổ bạnh bộ ngực to lỏng khuy tới rốn,
Ánh mắt chỉ huy bình thản, anh hất vành mũ cong lộ ra vầng trán,
Nắng đổ xuống tóc râu quăn tít, xuống màu đen hai cánh tay hoàn hảo bóng như gương.
Tôi ngắm nhìn anh chàng khổng lồ đẹp tuyệt và yêu anh, và tôi không dừng ở đấy,
Tôi đi cùng với cỗ xe.
Trong tôi là người mơn trớn cuộc đời, di chuyển bất cứ đâu, lui lại phía sau cũng như quay ngoắt lên phía trước,
Hướng về những hốc khuất lẻ loi bé mọn, một người một vật cũng không quên,
Uống tất cả vào mình và uống cho bài ca này tất cả.
Hỡi những chú bò lạch cạch chiếc ách trên lưng và sợi xích, hay dừng chân trong bóng lá, đôi mắt chú nói gì?
Điều ấy với tôi dường như còn nhiều hơn tất cả những bản in trong đời tôi đã đọc.
Bước chân tôi trong chuyến ngao du xa nhà suốt ngày dài làm đôi lứa vịt trời hoảng hốt,
Hai con cùng bay lên, bay chầm chậm thành vòng.
Tôi tin ở những chủ tâm có cánh,
Và nhận biết sắc đỏ trắng vàng đùa rỡn trong tôi,
Và coi màu tím màu xanh và cái vương miện-búi lông kia cũng đầy tình ý,
Và không bảo nàng rùa là vô giá trị vì nàng không phải vật khác nàng,
Và con chim giẻ cùi trong rừng sâu chẳng bao giờ học nhạc mà rung tiếng hót thật hay,
Và dáng đẹp cô ngựa hồng làm tôi thẹn thùng và thoát khỏi ngu si trong phút chốc.
Bình chú: Trong đoạn này Whitman chú tâm vào một người đàn ông da đen. Lưu ý cái nhìn “chỉ huy” và “hai cánh tay hoàn hảo bóng như gương”. Sự ngưỡng mộ và tình yêu của tác giả vượt qua ranh giới chủng tộc là một cái gì đó khá xốc đối với nhiều độc giả ở giữa TK 19. Và ngạc nhiên thay, cách ăn vận của chàng da đen này là hình ảnh phản chiếu tấm chân dung tác giả mở đầu tập thơ Leaves of Grass (Lá cỏ) năm 1855 (chiếc áo sơ mi mở phanh cổ, cái nhìn “bình thản, chỉ huy” và chiếc mũ hất qua một bên trán). Việc tác giả tự-đồng nhất với người đánh xe da đen là một bước nữa tới lối tư duy dân chủ, khi nhà thơ trở thành một người “mơn trớn” tất cả cuộc sống. Ông đi từ người đánh xe đến bày ngựa, con bò kéo xe… Không chỉ quan sát chúng, ông đặt mình giữa bảng tiến hóa của muôn loài, thể hiện tư tưởng vạn vật bình đẳng. [Ta lại bắt gặp ở đây một nhận thức về chúng sinh của Phật giáo – ND]
14
The wild gander leads his flock through the cool night,
Ya-honk he says, and sounds it down to me like an invitation,
The pert may suppose it meaningless, but I listening close,
Find its purpose and place up there toward the wintry sky.
The sharp-hoof’d moose of the north, the cat on the house-sill, the chickadee, the prairie-dog,
The litter of the grunting sow as they tug at her teats,
The brood of the turkey-hen and she with her half-spread wings,
I see in them and myself the same old law.
The press of my foot to the earth springs a hundred affections,
They scorn the best I can do to relate them.
I am enamour’d of growing out-doors,
Of men that live among cattle or taste of the ocean or woods,
Of the builders and steerers of ships and the wielders of axes and mauls, and the drivers of horses,
I can eat and sleep with them week in and week out.
What is commonest, cheapest, nearest, easiest, is Me,
Me going in for my chances, spending for vast returns,
Adorning myself to bestow myself on the first that will take me,
Not asking the sky to come down to my good will,
Scattering it freely forever.
14
Chú ngỗng trời dẫn đàn bay qua đêm mát lạnh,
Tiếng chú kêu oang oác vọng xuống tôi như một lời mời,
Kẻ thô thiển có thể cho là vô nghĩa, nhưng tôi chăm chú lắng nghe,
Tìm thấy chủ đích và vị trí của tiếng kêu trên phía trời đông giá.
Con nai sừng tấm móng sắc Bắc phương, con mèo trên ngưỡng cửa, con chim sẻ ngô, con chó vùng đồng cỏ,
Ổ lợn con của ả lợn nái gằn gừ đang giựt nhay vú mẹ,
Đàn gà con và con gà mái xoè cánh nửa chừng,
Trong chúng và trong bản thân mình tôi thấy chung một qui luật cổ.
Chân tôi giẫm vào đất làm bật lên trăm vạn tình thương,
Dù gắng hết sức mình tôi cũng không sao diễn tả.
Tôi mê mẩn những gì đang lớn dậy ngoài trời,
Những người đàn ông sống giữa bày mục súc hay nếm vị biển vị rừng,
Những người đóng tàu hay lái tàu và những tay rìu tay vồ và những người cưỡi ngựa,
Tôi có thể ăn ngủ cùng các anh hết tuần nọ sang tuần kia.
Cái gì tầm thường nhất, rẻ mạt nhất, gần gụi nhất, dễ dàng nhất, đó là Tôi.
Tôi lao vào mọi cơ may, tiêu hoang mong lãi đậm,
Tự trát phấn tô son để hiến mình cho kẻ đầu tiên đón nhận,
Thiện chí của mình tôi chẳng đòi trời xuống giúp,
Tôi mãi mãi rải nó ra miễn phí khắp mọi nơi.
Bình chú: Trong đoạn này, Whitman đưa ra tuyên bố cấp tiến nhất của mình về căn tính dân chủ: “Cái gì tầm thường nhất, rẻ mạt nhất, gần gụi nhất, dễ dàng nhất, đó là Tôi”. Ông không tìm mình ở cái xa lạ, cái khó khăn, cái đắt giá, mà ở những người bình thường ông gặp gỡ hàng ngày và những con vật sống và làm sinh động thế giới của ông.
(còn tiếp)
Nguồn: Lá cỏ - Bài hát chính tôi {SONG OF MYSELF}. Tác giả Walt Whitman. Hoàng Hưng dịch từ nguyên tác: Leaves of Grass (final "Death-Bed" edition, 1891-2) (David McKay, 1892). NXB Hội Nhà văn, 2015.
Cám ơn Nhà thơ, Dịch giả gửi www.trieuxuan.info
Tìm kiếm
Lượt truy cập
- Tổng truy cập55,841,640
Công ty TNHH TM DV Green Leaf Việt Nam
Là Công ty Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng đầu Việt Nam! Năm 2019, Green Leaf VN có hơn 500 xe du lịch từ 4 chỗ đến 50 chỗ, đời mới, đạt 150 ngàn lượt xuất bãi. Tỷ lệ đón khách thành công, đúng giờ đạt 99.97%.
*Nhân viên chăm sóc khách hàng người Nhật luôn tạo sự yên tâm và tin tưởng cho khách hàng...
Arita Rivera Hotel: Sông Hàn một bên, bãi biển Mỹ Khê một bên! Khung cảnh lãng mạn, tiện nghi hoàn hảo.
WELCOME TO EX LUXURY DA NANG (PREVIOUSLY NAME ARITA RIVERA)
Located by the romantic Han River with an unique architectural, Arita Rivera is truly the classy boutique hotel in this beautiful coastal city. With unique architecture, using the balcony as a highlight for airy space, all rooms are modern, comfortable. This is a paradise for couples who want to experience romantic vacations.
The Arita Restaurant & Bar on the 11th floor is open 24/7. This is where you can enjoy fine Asian and European cuisine from professional chefs, enjoy unique cocktails and view the city from the brightly-colored banks of the Han River or relax at the rooftop infinitive swimming pool.
Enjoy life, enjoy Arita experience!
Đọc nhiều nhất
- Phạm Hổ - Thơ viết cho nhi đồng
- Người của giang hồ (5): Lâm Chín ngón
- Thuật quan sát người (4)
- Người của giang hồ (11): Hải bánh
- Người của giang hồ (8): Huỳnh Tỳ
- Thuật quan sát người (2)
- Vài nét về tục Cúng Mụ, đầy tháng, thôi nôi
- Vài tư liệu về Tục thờ Thánh Mẫu
- Chùm thơ về Tây Nguyên
- Chuyện Sọ Dừa